PHÁP TẠNG PHẬT-GIÁO VIỆT-NAM
ĐỨC TĂNG-CHỦ
TỊNH-VƯƠNG NHẤT-TÔN
*************
ẤN-TRUYỀN
BIỆT TÔN VÔ THƯỢNG ĐẲNG
GIÁO NGÔN TRỰC CHỈ
ẤN CHỈ V
TẬP I
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Nhân ngày mùng tám tháng tư, năm Nhâm-Tuất 1982, lúc 20 giờ 30, tại Trung-Ương Hội Thượng, cử-hành Đại-Lễ ĐẢN-SANH của ĐỨC BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU NI-PHẬT. Tứ- Chúng tề-tựu, theo thường-lệ, vẫn một lòng tín-ngưỡng thọ-trì Bảo-Pháp, nhất-tâm tu cầu TRI-KIẾN GIẢI- THOÁT.
Về phần ĐỨC TĂNG-CHỦ vẫn chỉ-dạy hóa-giải từng lớp-lang thân-tâm nơi tín-chúng tiến- bộ. ĐỨC TĂNG-CHỦ không hề phát-hành , chỉ GIÁO-NGÔN truyền-thuyết, không hội-hè hội-họp như các mọi năm trước . Ngài vẫn một mặt Tâm truyền đơn-giản, NHƯ- NHIÊN TRỰC-GIÁC, khó nghĩ bàn.
Khi bấy giờ nơi Chánh-Điện, Tứ-Chúng ngồi yên đàm-luận , bàn-bạc về môi-sinh hiện tại khó tu. Bỗng có tiếng chuông reo , báo hiệu ĐỨC TĂNG-CHỦ Giá-Lâm, chứng minh Đại- Lễ , Tứ-Chúng đồng yên lặng ứng lễ.
NGÀI từ Tịnh-Thất bước xuống , đi tháp-tùng có hàng Thị-Giả, Tôn-Giả và Hộ-Pháp đồng ra Chánh-Điện . Khi bấy giờ NGÀI lại đến ngồi tĩnh-tọa trên chiếc ghế vải , thường ngày để sẵn , lúc NGÀI nghỉ-ngơi hoặc xem Kinh-Điển , vì khác hơn thường-lệ làm cho Tứ-Chúng bỡ- ngỡ , nhưng vẫn xếp thứ-tự trang-nghiêm đồng lễ-bái. NGÀI đưa tay ra lệnh , Tứ-Chúng ngồi đâu đó xong xuôi , NGÀI nói:
Tôi khá khen các ông , từ nơi rộng-rãi tu-hành cho đến thời tu eo-hẹp , mà các ông vẫn một lòng một mức kiên-trì , kiên-nhẫn công-phu tinh-tấn không nhàm chán lễ-nghi , mức TIN-VÂNG đối với GIÁO-MÔN không đâu bằng , chỉ vì các ông đang sanh hạ trong thời Lạc Pháp , con người đang cải-cách mà các ông không điên-loạn theo đồ-chúng . Còn đối với Tôi cùng Giáo-Hội vẫn gìn-giữ TÔN-CHỈ hành-lễ cổ-truyền ngày mùng Tám Tháng Tư của các thế-kỷ nghìn xưa lưu lại.
Thật ra con đường Tu-Phật , nó có rất nhiều cải-cách , sự cải-cách BẢN- THÂN hơn là cải-cách tục-truyền , lễ-bái chiêm-ngưỡng , vì hình-thức cải-cách nó tự sanh ra nhiều mâu- thuẫn , tự-sanh nhiều lý-sự khó khăn để các Bậc tu chạy theo Đồ-Chúng hư-vị, do đó mà làm cho tâm-ý bị phân-đối , tinh-thần lạc-lõng giữa ngày Đản-Sanh của Phật còn vướng bị cải- cách thời làm sao Kinh-Pháp không sai-lạc , thật vô lối . Đứng trước phương-diện cải-cách bản-thân rất cần thiết phải cải-cách . Từ nơi tâm-chí phàm-phu eo-hẹp , cải-cách đến tâm-chí bao-dung rộng-rãi, cốt giúp cho quần-sanh đặng tỏ rõ, thời nơi bản-thân chính mình tu cầu TRI- KIẾN GIẢI-THOÁT.
Đại để như ĐỨC BỔN-SƯ, NGÀI khi đang còn là Vị Thái-Tử , NGÀI sống phẳng- lặng , thân-tâm nơi NGÀI chưa vừa lòng , mức sống lối sống trong cung-vàng điện-ngọc, NGÀI tự ra đi để cải-cách bản-thân , cốt đáp-ứng nhu-cầu tự-do thoải-mái . Do đó NGÀI chấp nhận sự đơn-giản hơn là lối sống hình-thức rườm-rà , từ nơi cải-cách bản-thân sự sống lối sống thoải-mái đối với NGÀI thực tế.
Ngày nay các ông ngồi trước tôi , chiêm-ngưỡng để tu cầu nhận lấy lẽ sống an-nhiên tinh-thần hơn vật-chất , Tôi cùng các ông đồng sống , chẳng cầu lấy rượu-chè hay tiệc-tùng chén-bát , mỹ-vị cao-lương , các ông nhận-định đặng như thế thì tự vui-mừng, chính đời nơi các ông và Tôi đang cải-cách bản thân mà đang sống đặng như thế.
Đối với ĐỨC THẾ-TÔN , NGÀI phải xa-lìa đánh đổi ngọc-ngà châu-báu để cải-cách bản-thân , NGÀI chấp nhận cảnh khổ sự khổ tìm CHÂN-ĐẾ về giúp cho Nhân-Loại. Hiện nay đó chính là tài-liệu cải-cách bản-thân hơn là cải-cách hình-thức . Khi Đức THẾ-TÔN mới ra đi chưa phải là Bậc Chánh-Giác . Lúc các ông đang ngồi trước Tôi , các ông chưa hẳn đã giải trọn Mê-Lầm , tuy nhiên hai lối nhưng vẫn có một đường , vì sao ? – Vì chính NGÀI buổi ban đầu bị tu nơi KHỔ-HẠNH với nhóm người tự đem cái khổ nhục-xác vào mình.
Khi bấy giờ , NGÀI vẫn nhờ nơi Bảo-Pháp NHƯ-NHIÊN hiểu biết, khỏi ép nơi khổ- hạnh Bị-Biết . Ngài bèn ra đi đến cội Bồ-Đề Tọa-Thiền Chánh-Giác . Ngài tự nói : TA chớ giam mình nơi Khổ cầu Đạo Bồ-Đề . TA chớ hủy-hoại thân-mạng cầu lấy Diệu-Quả khó tu, khó chứng.
Từ đó cho đến ngày nay , NGÀI lưu lại những điều NGÀI tu-trì , tu-tập , tu-hành trải qua từng thứ lớp trở thành TAM-TẠNG-KINH . NGÀI cứu-giúp giải-tỏa buông-lung đau buồn nơi cảnh khổ, Ngài hóa-giải chẳng biết bao nhiêu sự mê-lầm ngăn-chấp. Từ nơi bị-giác , bị -tu , an nhiên tự tại đến TRỰC- GIÁC . Từ thứ bậc Tu-Thân Đạo-Hạnh đến hóa giải trở thành Hạnh-Nguyện Độ-Sanh đứng vào hàng Bồ-Tát-Nguyện . Nay Ta nói ra để nhắc các ông nên nhớ , chớ vì khổ nãi lòng , chớ vì mức sống eo-hẹp trễ-nãi công-phu, nếu các ông đem quan-niệm ấy vào lòng , thì Tâm-Chí của các ông tự mang cái Khổ . Bằng các ông hóa-giải bằng bộ-óc GIẢI-THOÁT thì các ông noi gương ĐỨC- CHÍ-TÔN cốt đánh đổi nơi eo- hẹp làm cho tâm-chí rộng-rãi bao-la , từ chỗ đương thời eo-hẹp khó-khăn tu đoạt QUẢ-VỊ phát-triển . Những điều ấy nên nhớ lấy.
Ngày nay các ông đặng gặp Tôi , tỏ lòng ái-kính do nơi đâu , phải chăng Tôi thường đem lời tu chuyên-chính , con đường chuyên-chính ấy là tôi vẫn thường cải-cách bản-thân nên có công- năng quyết-định đưa các ông CHÂN- GIÁC , giúp các ông thoát khỏi vòng Tử-Sanh , vì Tôi rất tỏ-tường thế nào là CHÂN-PHÁP , hướng-dẫn đến GIÁC-CHÂN . Tôi cũng đã sống nơi đắng-cay cam-khổ , cố-gắng kiến-tạo CÔNG-NĂNG nương nhờ NHƯ-NHIÊN TRỰC-GIÁC mới khỏi sự-lý lạc-lầm , thành thử lời chỉ-dạy toàn lời HOÀN-MỸ , lời ấy nó không Y- Kinh mà cũng chẳng Ly-Kinh , viên-thông hướng dẫn , như thế gọi là CHÂN-TRUYỀN CHÂN- GIÁC.
Lời CHÂN-TRUYỀN CHÂN-GIÁC không thể chỉ trên văn-tự , nó nương nhờ NHƯ-NHIÊN TRỰC- GIÁC thành đạt , vì lời nói ra không bị HỮU-HÓA hay BỊ-GIÁC , BỊ-TU , thành hình BỊ-BIẾT để đọc-tụng nói ra. Chính nó từ nơi xuất-phát TỰ-TÁNH CHÂN-TRUYỀN , do đó từ vô-thủy đến hiện nay có hằng-hà sa-số BẬC CHÁNH-GIÁC thảy đều lời nói như nhau không sai chạy . Một trong hai thái cực khác nhau , chính thân-tâm bậc tu-hành nên thịnh-trọng . Khi các bậc tu-hành đang còn Bị-Biết , trí-tuệ thân-tâm chưa tự-tại , đường tu-trì thường bị chổ ĐÚNG SAI sanh lòng quái-ngại , đối với từ LÝ đến SỰ chưa viên-thông, cho nên Tôi thường nói : Khi các ông nói , nhưng Tâm nơi các ông chưa biết , lúc các ông THỰC-BIẾT đặng thì TÂM-Ý-MIỆNG các ông sẽ nói ra .
TRỰC- GIÁC CHÂN-TRUYỀN vốn sẵn nơi NHƯ-NHIÊN lại có sẵn mọi hoàn-cảnh Thuận-Nghịch của hàng ngày nó vẫn ở nơi cái-sống từng lớp người , kể cả từ hành-động cử- chỉ , ngôn-ngữ thảy đều có nó , sự điều-động , quan-niệm tác-động gọi là PHÁP-GIỚI đối với chúng-sanh . Còn bậc chẳng dính-mắc với nó thảy đều nương theo mà TRỰC-GIÁC.
ĐỨC TĂNG-CHỦ NGÀI nói đến đây , NGÀI nhẹ giọng dạy tiếp : Tôi và các ông , chung trong thời Hiện-Kiếp , có nghĩa là kiếp sống với nhau . Nhưng đối với tôi đã từng biết sử-dụng đường đi lối về nơi VẠN-PHÁP , thật biết tỏ-rõ sự lầm-lẫn chấp nê của các ông trở thành thọ-nghiệp PHÁP-GIỚI . Tuy nhiên các ông cùng một lứa tu-hành , cùng một MÔN tu- trì TRI-KIẾN , nhưng thật ra giữa các ông với các ông trình-độ tư-tưởng xa-cách nhau quá ư nhiều bậc , chỉ vì quan niệm không đồng nên cớ-sự nó như thế , PHÁP-GIỚI như vậy.
Pháp-Giới tác-hại vô cùng , đối với Bậc tu hành chưa biết sử-dụng . Nếu nhìn thấy nó mang Tâm-chí than-van phiền-trách từng cảnh Khổ nơi Sướng , để mong cầu , chẳng ích-lợi chi lại càng mang Khổ-Sướng nơi thân-tâm chán-nản khó tu . Khi các ông biết sử-dụng thời hoàn-cảnh nó đến là phải đến, các ông Tâm không mắc-miếu, nương nhờ hoàn-cảnh Cổi-Giải, Hỷ-Xả quan-niệm liền tỏ-rõ hoàn-cảnh mà TRỰC-GIÁC. Chẳng khác mấy , Bậc tu Nội-Công mong thử sức mình , gặp phải món đồ nặng , liền nâng tay đỡ lấy nhẹ-nhàng, lúc bấy giờ mới đo năng-lực nội-công nơi mình kết-quả hay chưa kết-quả. Đối với Chư BỒ-TÁT nương nhờ PHÁP-GIỚI sở đắc PHÁP-THÂN , còn phàm-phu thọ-chấp gánh chịu giới-hạn trở thành lối – sống sự-sống tư-tưởng hành-động thảy đều là PHÁP-GIỚI . Các ông cũng nên biết , nơi thường diễn của pháp-giới nó chẳng có Giới chi cả , vì sao ? Vì THỂ-TÁNH nó như thế . Trong lúc lầm mê mới có được gọi là SANH-DIỆT do nó diễn từng hồi , nhịp-nhàng nó diễn . Lúc Sở-Đắc Thể-Tánh nhịp-nhàng , chẳng mắc-miếu ,THỊ CHỨNG BẤT-SANH , BẤT-DIỆT .
Các ông tự than-phiền sinh-sống , thế-tình điên-đảo , đương-nhiên các ông mang vào Pháp-Giới khát-khao , có phải chăng các ông tự đặt mà thành làm cho ngăn-cách, lại cầu Tri- Kiến Giải-Thoát . Chẳng khác nào tự mang lấy gánh nặng , chưa chịu vớt đi, cho nó nhẹ- nhàng , chỉ đa-mang rồi mong-ước nhẹ-nhàng , không bao giờ có đặng.
Ta nói đây các ông chưa hiểu nổi , vì CÔNG-NĂNG còn kém. Các ông cứ tu , chớ trễ- nải CÔNG-PHU , rồi một ngày nào đầy-đủ CÔNG-NĂNG NHƯ-NHIÊN , TÂM các ông không cấu-tạo , thời dù cho hoàn-cảnh chi chăng nữa vẫn là món ăn TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT thân tặng các ông .
ĐỨC TĂNG-CHỦ dạy xong , Tứ Chúng đảnh lễ .
Tôn-Giả Pháp-Khả xin ghi-chép phụng-hành.
Ngày mùng Tám tháng Năm năm 1983
TỊNH-VƯƠNG NHẤT-TÔN
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Tôi còn nhớ , lúc bấy giờ vào thượng-tuần tháng hai năm 1979 , ĐỨC TĂNG-CHỦ TỊNH-VƯƠNG NHẤT-TÔN giá-lâm Sài-Gòn lần thứ Tư , tại nhà ông bà hiệu may Y-Phục Hoa-Hậu , đường Cao-Thắng . Theo thường-lệ mỗi chiều thứ bảy NGÀI khai-thị cho Tứ Chúng đến dự nghe hay thọ-lãnh tu-trì.
Có một hôm đầy-đủ Tứ-Chúng , từ hàng Thượng-Trí đến hạ-trí , viên-chức hồi-hưu và các chú nhỏ trẻ-trung lao-động , họ đồng nhau tề-tựu , tự xếp chỗ ngồi hình-thành bán-nguyệt . ĐỨC TĂNG-CHỦ NGÀI ngồi trên nệm nhỏ , khăn trải vải vàng , trước mặt NGÀI có bình tách trà để thấm giọng . NGÀI an-tọa trang-nghiêm đỉnh đạt , nhìn quanh tứ-chúng một vòng, in tuồng nhận-xét dưới sự tín-tâm , NGÀI mới tùy theo nhu-cầu mà chỉ-dạy.
Tôi thấy các Ông , Thiện-Nam-Tử , Thiện-Nữ-Nhơn có tâm-chí cầu-đạo Bồ-Đề . Có chân- thành thiết-tha cầu Đạo Tỏ-Ngộ . Nhưng tiếc thay ! Có tín-tâm tu-cầu , nhưng nơi tu đó nó trở thành Tham-Cầu lung- lạc , ưa thích nhiều môn , nhiều pháp tu-cầu cao-siêu nơi ảo-vọng , do đó nên chưa biết GIÁ-TRỊ BẢO-PHÁP như thế nào , để thấu rõ giá-trị của tu cầu lãnh lấy. Do lẽ ấy nên ngày hôm nay Tôi dạy các ông nhận chân GIÁ-TRỊ BẢO-PHÁP.
NGÀI nói : GIÁ-TRỊ nơi BẢO-PHÁP chưa phải tu nhiều mới đủ. Chưa hẳn tu ít mà đặng , chỉ tu trong một PHẨM-HẠNH làm tròn Phẩm-Hạnh vẫn đủ MÔN . Vì thế nên PHẬT mới để lại PHÁP-MÔN Chư Bồ-Tát nhận-lãnh Chỉ-Đạo.
Khi bấy giờ Tứ-Chúng lặng yên , nhìn về ĐỨC TĂNG-CHỦ Ngài đỉnh-đạt nghiêm-túc nói : Các ông vẫn chuyên-trì một MÔN chu-đáo liền thành-tựu . Vì sao ? Vì mỗi một Môn diễn-tiến toàn-diện , cho nên ĐỨC THẾ-TÔN NGÀI nói : Mỗi một PHÁP nó đầy-đủ Bá- Thiên Vạn-Pháp , lãnh lấy một Pháp thành PHẬT .
Bậc tu-hành , kể từ sơ-khởi đến tận cùng , nên tu-trì gìn-giữ CÔNG-ĐỨC-PHẨM . Công-Đức-Phẩm nó có giá-trị vô kể , không thể nào diễn-đạt sự diễn-tiến nơi nó đặng , bậc chuyên-trì TINH-TẤN CHUYÊN-TRÌ mới nhìn nhận , từ nơi một QUAN-NIỆM nhỏ nơi PHẨM CÔNG-ĐỨC đến kết-quả quá ư rộng-rãi bao-la vô-tận CHÁNH-GIÁC.
THẾ NÀO LÀ : TỪ MỘT QUAN-NIỆM ?
Đa phần các bậc tu-hành , từ bậc Xuất-Gia tu lập Công-Quả, đến bậc tại-gia phát nguyện tu Công-Đức Phẩm thảy đều quan-niệm : Tu-hành phải có Công-Đức , nào là hương- đăng , hoa-quả lễ-bái , cúng-dường Tam-Bảo , cúng-dường Chư-Tăng , xây Chùa dựng Tháp mỗi mỗi đều bổ-sung nơi Công-Đức , thông-thường , thường-lệ các ông đã biết , rất nhiều quan-điểm khác nhau , không ngoài cầu vái nơi sở-nguyện của mỗi người .
Từ một quan-niệm Hữu-Lậu trên đến tu PHẨM-HẠNH VÔ-LẬU CÔNG-ĐỨC-PHẨM liền diễn-tiến theo lên từng mức-độ trình-độ thọ-trì BẢO-PHÁP , chừng đó mới nhận-định cao-quý của Bảo-Phẩm .
Quan-niệm HỮU-LẬU là Y-Áo cúng-dường , phẩm-vật cúng-dường , hương-đăng hoa- quả , xây Chùa nuôi Tăng . Còn VÔ-LẬU Tín-Tâm phụng-hành CÔNG-ĐỨC , đa phần bậc sơ-khởi tu-hành còn quan-niệm về nơi Phước-Báo Nhân-Thiên hay tu-hành thoát-sanh về TỊNH-ĐỘ Tây-Phương Cực-Lạc . Căn-cứ nơi Công-Đức-Phẩm thì tùy theo Sở-Nguyện mà thành .
Bằng có Bậc tu Công-Đức-Phẩm , kiến-tạo Công-Năng cơ-bản tu-cầu Tri-Kiến Giải-Thoát . Nương nhờ kiến tạo công-năng , nên bảo-trì công-quả , phục-vụ Công-Đức không kể-lể . Gặp kẻ Ngoại-Giáo dèm pha , bậc này gìn-giữ thân-tâm không hờn-giận , chủ-yếu chuyên-trì công-quả . Từ NỘI-TÂM đến NGOẠI-CẢNH vững-vàng không cầu báo , liền PHẨM-HẠNH DIỄN-TIẾN tu trong thời-gian Từ nơi BỐ-THÍ không kể-lể đến TRÌ- GIỚI TINH-TẤN , NHẪN-NHỤC thảy đều NHẤT-TÂM cố giúp , càng giúp mọi người chu-đáo bao nhiêu, vẹn toàn không cầu tri-ân trả nghĩa, gọi là TRÍ-TUỆ THIỀN-ĐỊNH . Nếu Bậc này có tu Thiền lại càng quý , bằng chưa tu Thiền vẫn có TRÍ-TUỆ sáng soi .
Lúc sáng soi Sửa Tánh , làm cho từng lớp người phù-hợp trở thành ĐẠO- ĐỨC , Đạo- Đức này sung vào HẠNH toàn-diện gọi là PHẨM-HẠNH . Từ nơi Phẩm-Hạnh thi-hành LỤC- BA-LA , được chia thành BA-LA-MẬT-ĐA , nên gọi là tu-hành BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA vậy .
Từ đó mới bước vào con đường tu BỒ-TÁT-HẠNH mà đặng sáng soi tất cả TÁNH của Nhân- Sanh-Tánh , tạo thành PHÁP-GIỚI nên gọi là CHÚNG-SANH-GIỚI . Nơi Chúng-Sanh-Giới này chưa hẳn riêng loài Người , nó chung gồm tất cả đều thọ-chấp mà hoá-sanh ra đủ loài. Từ các Sanh-Vật đến Vạn-Vật cùng con người , Tiên-Thần Thánh-Hóa thảy đều bị GIỚI sanh , luân-chuyển nơi kiếp luân hồi sanh-tử . Bậc này nhìn khắp Thế-Giới Vũ-Trụ gọi là : THỂ . Bằng lớp-lớp Chúng-Sanh-Giới được gọi là PHÁP-THÂN , Sở-Đắc PHÁP-THÂN- PHẬT .
Nhờ Công-Đức-Phẩm , nhìn-nhận THỊ- CHỨNG PHÁP-THÂN nên chi Tỏ-Ngộ đặng PHÁP và TÂM đều duy-nhất , liền vui-mừng nói : Tâm tiêu-biểu cho TÁNH , còn TƯỚNG vốn là PHÁP thảy đều MỘT , không hai . Thật kỳ diệu-thay ! Có Tướng có Tánh kiến-tạo hoàn-cảnh . Không TƯỚNG có TÁNH vốn sẳn NHƯ-NHIÊN . Có TÂM chưa PHÁP Tư-Duy TỊCH-TỊNH .
Khi bấy giờ Công-Đức Phẩm-Hạnh này , chỉ thực hành TRÒN-DUYÊN , TRÒN-NGUYỆN gọi là CÔNG-ĐỨC CÚNG-DƯỜNG NHƯ-LAI . Nhờ Như-Lai , nương vào Như- Lai mà DUNG-THÔNG PHÁP-GIỚI , Thị-Chứng VÔ-SANH PHÁP-NHẪN . Đó phải chăng BẢO-PHÁP cao-quý giá-trị , khó nghĩ bàn chăng?
ĐỨC TĂNG CHỦ NGÀI dạy đến đây , nâng tách trà thấm giọng, nhìn khắp tứ-chúng xét xem có nhận-lãnh đặng phần nào.NGÀI dạy tiếp : Thật ra Tứ-Chúng nghe , tôi được nghe vui-mừng khó tả , muốn đứng lên tán thán tri-ân , nhưng chưa kịp , ĐỨC TĂNG-CHỦ liền dạy:
Các Ông nên biết : Mỗi một PHẨM-HẠNH DIỄN-TIẾN giá-trị cao-quý như thế , đã có bậc thực hành kết quả đi trước . Kẻ tu-trì đi sau phải cố-gắng thi-hành . Chính ra , như tôi hiện nay hoàn-mỹ vẫn nương nhờ CÔNG-ĐỨC-PHẨM , nẩy-nở CÔNG-NĂNG , từ thấp trưởng- thành TỐI-THƯỢNG CHÁNH- GIÁC , đoạt đến VÔ-THƯỢNG-PHẨM , khó nghĩ bàn .
THẾ NÀO LÀ VÔ-THƯỢNG-PHẨM ?
VÔ-THƯỢNG-PHẨM . Các Ông đang sinh-sống với tôi , các ông đang ngồi ngay trước mặt tôi , các ông chỉ nhìn tôi bằng đôi mắt vừa tầm cùng nhận thức lãnh hội với Công-Đức nơi các ông đang tu , chớ nào vượt-tầm Công-Đức-Phẩm ? Tôi thường nói , hoặc giả hay nói hai chữ THỊ-HIỆN , các ông chỉ TIN-VÂNG-KÍNH tâm-tình nhận lãnh , chớ nào hay biết chi nơi Thị-Hiện của Tôi . Nếu so về PHẨM , Tôi và các ông xa hằng bá-thiên vạn-ức do-tuần , khó tường-tận là như thế . Chỉ có CHƯ-PHẬT mười phương , đã từng PHẨM-HẠNH Bá- Thiên Vạn-Ức PHẬT , trở thành VÔ-LƯỢNG CÔNG-ĐỨC-PHẨM , mới nhận thấy nhìn thấy tường-tận nơi THỊ-HIỆN của tôi mà thôi .
Đối với Phẩm-HẠNH , thấp- cao từng thứ-lớp, vì Lý-Trí nơi Công-Đức-Phẩm xuất-xứ khác nhau , cho nên Phẩm-Hạnh nơi BỒ-TÁT-HẠNH nói ra một câu , hàng Nhị-Thừa như: Thinh-Văn, Duyên-Giác , khó nghe đặng, làm sao nhìn thấu Phẩm-Hạnh Bồ-Tát , Bồ-Tát phải phương-tiện , công-dụng Hạnh Thinh-Văn , hạnh Duyên-Giác để giúp Thinh-Văn Duyên- Giác tu-trì Công-Đức-Phẩm , Thì Bồ Tát làm sao thấy nơi THỊ-HIỆN của Bậc VÔ- LƯỢNG PHẨM , cớ-sự như thế nên các ông không thể nhận thấy hay đặng thấy Thị-Hiện.
ĐỨC TĂNG-CHỦ NGÀI dạy đến đây lặng thinh ra chiều đắn-đo suy-nghĩ . Bất chợt NGÀI nói : Tuyệt-tác thay ! Vì duyên gì ngày nay nói lên lời THỊ-HIỆN . Các ông hãy nghe lời nói thật nơi TA.
Chính TA Hạ-Sanh là BỔN-NGUYỆN chung cùng Chư-Phật, đem về lượng mà nói thì TA với các ông như nhau , chỉ nương nhờ PHẨM-HẠNH VÔ-LƯỢNG-PHẨM nên Chư-PHẬT mới ĐỒNG-ĐẲNG HIỆN-THÂN cho Bổn-Nguyện HOÀN-MỸ nên chi:
Tất cả hoàn-cảnh diễn-cảnh đương-thời Hạ-Lai Mạt-Pháp , Chư-Thiên kiên-sợ , Chư-Tiên tránh né , Ngũ-Trược Ác-Thế đến Thiên-Thần phải xa lánh ủy-mị tác-quái , chẳng dám đến gần nơi Nhân-Thế . Vì sao ? Vì Nhân-Sinh Bị-Sanh đương thời MẠT-PHÁP TẬN-ĐỘ , nơi thời Tận-Độ nó độc-ác chẳng kém thời Thượng-Sanh , vì như thế nên từ hàng Sơ-Trụ Bồ- Tát phải điên-đầu vì chúng-sanh thường-chấp , bị-trụ nơi Lý-Chướng Sự-Chướng , không làm mong được , chẳng tu-trì ưa chứng-Đạo . Còn hàng Nhị-Thừa phải ẩn-dật trong rừng sâu cầu lấy lối sống tạm yên , vẫn bị quấy nhiễm . Ta liền THỊ-HIỆN , CÔNG-LỰC , ĐẠI-LỰC TÔN- PHẬT mà gánh chịu .
Khi Ta đăng-đàn thuyết-minh hoặc-giải vạn-pháp Tối-Thượng Trang-Nghiêm , Khai-Thị liền có ĐỨC DIỆU-ÂM-PHẬT cùng CHƯ-PHẬT Mười phương đến Chứng-Thị . Bằng lúc Ta chứng-minh Tứ-Chúng , hay hành-lễ có Chư-PHẬT chứng-giám . Ta kêu gọi chư LONG- THẦN cùng tất cả các hàng BỒ-TÁT tề-tựu hộ-trì , liền có ĐỨC BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU- NI-PHẬT THỊ-HIỆN tại chỗ .
Lúc TA Tĩnh-Tọa An-Tọa CHÁNH- ĐỊNH viễn đạt , tất cả thảy đều Viên-Thông,Thần- Thông , Thị Chứng từng sát-na quán-sát , giao-cảm Tam-Thiên , Tam-Thế-Phật , cùng các Chư Thiên , vận-chuyển TAM-MUỘI mỗi-mỗi đều THỊ-HIỆN tại nơi nơi chốn chốn , đều ĐỒNG-ĐẲNG TỲ- NÔ GIÁ-NA-PHẬT, chủ-trì Danh-Hiệu TỊNH-VƯƠNG PHẬT giúp-đỡ. Hôm nay TA thành-thật tuyên rõ BẢO-PHẨM duy nhất TU- ĐẠT không ngoài CÔNG-ĐỨC PHẨM-HẠNH diễn-tiến THÀNH-TỰU vậy.
Ngài dạy đến đây ẤN- CHỈ tuyên đọc Bài Thi năm trước , in tuồng nhắc-nhở Tứ-Chúng sáng-soi , chính BẢN-THÂN nơi mình CÔNG-ĐỨC PHẨM-HẠNH mà CHÁNH-GIÁC . Ngài đọc :
ỨNG-THÂN Long-Thọ vẹn-tuyền.
Còn TÂM. TRÍ. ÓC của Tiên-Thánh-Thần .
GIÁC-HOÀN chính thật là THÂN .
Tại sao chưa tỏ phân-vân nỗi gì ?
Tìm đâu nhìn lại Bài THI .
Lời TA đã nói những gì PHẬT-NGÔN ?
NAM MÔ DI-LẠC TÔN-PHẬT
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Theo thường-lệ , mỗi năm, đến ngày 30 tháng 09 Âm-Lịch , cử-hành ĐẠI-LỄ CHỨNG- MINH hằng năm của Giáo-Hội , cùng ngày Vía Phật ĐÔNG-ĐỘ DƯỢC-SƯ LƯU-LY QUANG-NHƯ-LAI . Tất cả Tứ-Chúng có Tín-Thành đều tự ý về Trung-Ương Hội-Thượng dự lễ .
Từ năm 1975 , cuộc Đại-Lễ bắt đầu giảm chế . Tứ-Chúng không được về tự-do, vì sợ tập- trung đông-đảo lại thiếu phương-tiện nghỉ-ngơi , thêm vào đó cuộc đi lại khó khăn về xe-cộ, nên mỗi nơi cử lấy một vài vị về dự lễ .
Tôi còn nhớ , Năm 1978 tôi về Trung-ương , đường đi khó-khăn , xe đò bị hỏng máy , phải ăn nằm dọc đường , ngày hôm sau mới về đến trung-ương, vào lúc 9 giờ sáng, tôi tắm rửa thay quần áo xong , bước lên Tịnh Thất hầu thăm ĐỨC TĂNG CHỦ .
Ngài nằm trên chiếc ghế vải Nilon màu xanh nhạt. Trong Hội-Thượng có hơi vắng người hơn trước kia, chẳng còn nhộn-nhịp như mấy năm xưa nữa , chỉ gặp năm ba vị đang trang-trải Chánh-Điện . NGÀI nhìn tôi , nét mặt có vẻ vui-mừng , hòa với nét suy-tưởng . Tôi nhẹ cảm biết NGÀI đang nhập Chánh-Định , tôi lặng yên đảnh lễ ngồi một bên, chỉ thưa gởi vài điều vấn-an sức khỏe .
Khi bấy giờ Ngài lần-lượt hỏi thăm Tứ-Chúng Sài-gòn , từng vị đã tu, đang tu cùng bậc mới vừa nhập Đạo , đâu đó xong xuôi , NGÀI nói : Ông Tạng-Bửu , ông về Tôi rất mừng , hiện Tôi đang họp từng cùng Chư Phật , hợp bàn về vấn-đề Phật-Đạo bị Ngoại-Lai xâm-nhập , nên chi đến thời này gọi là thời MẠT-PHÁP .
Tôi nói như thế để ông hiểu , ngoại-lai nó từ nơi PHẨM đến LƯỢNG di-chuyển thâm-nhập, khiến các bậc tu-hành đa phần lầm-lạc , cho nên các bậc tu- hành mới cần đến CÔNG-NĂNG , Công Năng từ nơi Tâm-Chí thiết tha cầu Đạo , cốt lướt qua từng trở-lực nơi Ma- Nghiệp Ngoại-Lai ngăn-cách và lừa-gạt , mới mong đoạt đến sở cầu HOÀN-LAI CHÂN-THIỆN .
Bằng những bậc tu biết sáng soi rỏ đó là Nghiệp-Thức nơi tư-tưởng , Nghiệp -Lực nơi Nghiệp-Căn thời chính nó là ngoại-lai khôn-khéo đi đứng nơi khái niệm văn-từ , diễn-biến theo tư-tưởng, có lúc ngỡ mình Giác , liền bị ngoại-lai lừa-dối , tu như thế rất phí-phạm công- phu , chưa Hoàn-Giác , lầm-lạc ngoại-lai đi vào Tà-Kiến.
Ông nên nhớ : Theo tài-liệu : DƯỚI SỰ NHẬ-ĐỊNH VŨ-TRỤ VỚI CON NGƯỜI , Tôi đã nói : Khi ĐỨC- PHẬT Thị-Hiện nơi ẤN-ĐỘ , Phái Thần-Đạo trọn quyền Tế-Lễ dùng sát sanh thú-vật tế Thần , giai-cấp con người với con người nô-lệ , Oan Hồn Uổng-Tử Ma- Đạo dẫy đầy . Ngài nói đến đây , lặng yên trong giây lát NGÀI nói tiếp : Theo Tôi được biết không riêng chi Ấn-Độ , tất cả các nước trên hoàn-cầu thảy đều bị-sống trong tình trạng mê-tín nơi Ngộ lẫn cái Mê không thể nào chấm dứt .
Từ ngày Phật-Đạo thành-lập thì Thần-Đạo bắt đầu giảm nghiệp sát- sanh , nhờ nơi ẤN- QUYẾT Nhân-Quả . Tất cả Nhân-Sinh Tứ-Loài nhận chân PHẬT-TÁNH , vì lầm nên phải hướng chịu nơi Sanh-Tử mà bị Hạ-Sanh . Nơi thuyết-minh này nếu tận thấy thì nó sâu xa của kiếp Luân-Hồi bị Ngoại-Lai Sanh-Tử . Đến ngày hôm nay , nghiệp Sát tiêu-giảm đối với các bậc tu-hành về Đạo Phật , nhưng lại quá ư lệ- thuộc ngoại-lai Ma-Đạo quấy nhiễm, từ nơi tâm-trạng ý- thức quan-niệm , nên chi nơi Chùa-Tháp các Chư Tăng tu-trì cổ võ , từ bên ngoài hình-thức Tu Phật , kỳ thiệt chưa thấu ngoại-lai dung-dưỡng Ma-Lực , tự sống nơi hình-sắc bên ngoài có sắc-thái tu-tập theo Giáo-Điều của kinh-điển đầy-đủ hình-thức . Nhưng bản-thân nào hóa-giải Vô-Minh cốt tỏ rõ Ngoại lai xoay chiều đủ hướng,chính nó là NGHIỆP- THỨC CÁ -TÁNH THỌ -NGÃ SỰ- CHƯỚNG CHẤP-PHÁP LÝ-CHƯỚNG , chính nó khôn-khéo ru ngủ , khéo khôn đưa đón, làm cho các bậc tu-hành phần nhiều chưa hay biết , miễn sao tự mình xâm chiếm chức-vị Cao-Tăng Đại-Đức , lại cùng nhau dung-túng Ngoại-Lai trở thành tu- hành phe-phái đồ- chúng khắp nơi làm cho Đạo-Phật càng ngày càng giảm giá-trị Tỏ -Tánh Kiến-Tri Phật-Đạo.
Đối với đời , cùng bậc khách-quan dân-chúng , nhìn Đạo Phật với người Tu Phật , có lối sống cầu an với một đám rừng người tiêu-cực mê-tín . Tôi nói ra đây với tinh-thần trách- nhiệm , sự tu-hành lầm-lạc bị ngoại-lai nên đa phần bị tình-trạng nơi đây chưa phát triển .
Đứng nơi cương-vị thuyết-minh chỉ thẳng , nếu nói có một chiều , hay nói toàn diện thảy đều như thế thì chưa hẳn là đúng , vẫn có những bậc Tu-Cầu tích-cực , tu-hành nghiêm-túc đoan-trang , tự sửa mình tu giải nghiệp , nương theo Kinh-Điển làm tài-liệu lời-Vàng . Nhưng tiếc thay ! Chỉ tầm cơ hiểu biết phần nào tựa như chỉ một miếng mồi tạm tu , tạm tỏ , liền tự cho mình Tri-Đạo , cho đến Bậc Tỏ-Tánh Chân-Không đã cho chính mình Sở-Đắc . Nào có hay Chân-Không có rất nhiều Tu-Chứng Bị-Chứng , đến Thực-Chứng . Từ Phàm-Phu Triết- Học đến Tiên-Thánh Chân-Không , chung lại vẫn còn lớp lang ngoại-lai diễn-đạt , do nơi diễn- đạt của ngoại-lai mà Chư Bồ-Tát phải tu trãi qua nhiều kiếp , hành-thâm Pháp-Giới, Thi-Hành HẠNH-NGUYỆN , kiểm điểm nội TÂM TRỰC-CHỨNG ngoại CẢNH , cốt Tỏ- Ngộ theo CĂN-CƠ , để khỏi lầm ngoại-lai đề-đạt thấp-cao của cấp bậc Tu-Chứng , Hóa-Sanh hay Bị-Sanh hoặc Đặng-Sanh cùng Tự-Sanh , CỨU-CÁNH GIẢI-THOÁT .
Dưới sự tu-hành có lập-trường nhất-định phải NHẤT-TÂM xem-xét tư-tưởng tánh-chất Ma-Nghiệp cản-ngăn , không để cho ngoại-lai xâm-chiếm con đường Tu Phật đoạn duyên mới sở-đắc chứng-tri nơi luân-chuyển trong bước đi đón đưa các bậc tu- hành vào Sanh-Tử , cho nên con đường Tu-Phật từ nơi TỰ-TÁNH TỎ-TÁNH , chớ chưa đến THÔNG-TÁNH , khi đến mức Thông-Tánh chớ chưa hẳn là ĐẠT-TÁNH , lúc Đạt chớ chưa phải đã TẬN-TÁNH , bằng TẬN chớ chưa THÀNH thời sao ? Tình-trạng nơi tu-hành , các bậc tu chưa: TỎ- THÔNG , chưa ĐẠT-TẬN làm sao hoàn mỹ để THÀNH .
Bằng phá chấp tu đến nơi mơ-màng , từ chổ Hóa Giải có hiện-tượng Mộng-Tưởng , khi Tự- Tại Vô-Ngại liền phát-sanh Kiến-dục. Những sự việc tu-hành trên thảy đều do Ngoại-Lai điều- động , nếu sa vào ngừng-nghỉ có lúc phải Bất-Tín sa Ác-Đạo .
Ông cũng nên biết , tất cả LÝ-SỰ hiểu biết chính nơi bản-thân trí-tuệ nghiền-ngẫm qua lại, kiểm-soát cho thật rốt-ráo , chớ nên tu một chiều-hướng chấp nhận , cốt tỏ rõ ngoại-lai xâm-nhập mà rốt-ráo . Trong trường-hợp các bậc tu-hành đã mấy ai ví bằng Thánh-Nhân TRANG-TỬ còn phải lầm trong ý nghĩ của mình mà chạy theo Ngoại-Lai điều-khiển , phải thử Vợ hành-sự Quạt-Mồ , huống chi các Tăng-Ni đường tu chưa căn-bản thuyết-minh mơ- màng làm thế nào khỏi lầm lạc.
Phải chi Trang-Tử tận-giác di-chuyển ngoại-lai đối với tất cả con người , thì có đâu phải xảy ra câu chuyện thử vợ quạt mồ , cho đến những bậc chưa thông-thái , chưa Tận-Đạt làm sao tỏ rõ con người đang sống, nó phải sống phục-vụ ngoại-lai nhiều hơn có lập-trường soi-sáng , vì vậy nên chi TÂM-Ý thay đổi không ngừng , thèm-khát vô cùng tham muốn , có như thế mới có cuộc đời đã mấy ai trung-thành cùng ai , chỉ có bậc tu-hành TẬN-GIÁC mới Trung- Thành Tín-Nghĩa mà thôi .
Thời Đức THẾ-TÔN còn tại-thế , vì NGÀI TẬN-GIÁC nên tận biết ngoại-lai xâm-nhập tư- tưởng mọi người . Khi phát tâm tu-hành, TÂM-THỨC tán-thưởng , sự tán-thưởng đó chính nơi ngoại-lai nương theo tán-thưởng trong đường tu , nó tùy-nghi trí-hóa mới có CĂN-NGHIỆP , mới có những sự tàn-phá đường tu , nên các bậc tu phải ngừa trước chớ lầm tưởng phát-tâm dũng-mãnh mà không có nó .
ĐỨC BỔN-SƯ NGÀI mới nói trong Hội-Trường , hiện-diện có đầy-đủ TỨ-THÁNH . Nói xong NGÀI mới chứng-minh VỊ-LAI thời MẠT-PHÁP .
NGÀI nói : Đương thời , các ông đảnh-lễ tôn-kính TA làm bậc THẦY Chỉ-Đạo duy-nhất của các Ông , nói như thế chiêm-ngưỡng lễ-bái như vậy , chớ nào hẳn như thế , vì sao ? Vì thân-mạng của các ông đã từng chứa hàng vạn Thầy từng giai-đoạn dạy các ông , cốt ngăn- cách lời Chỉ-Giáo nơi TA , không chấp nhận TA . Do nơi ấy mà các ông chưa lãnh-hội lời Chỉ- giáo . Nếu các ông có lập-trường CÔNG-NĂNG , tiêu-giảm các ngăn-cản, qua các trở- lực từng giai-đoạn , các vị Thầy lần lượt ra đi , lần lượt giảm , thời các Ông lần-lượt lãnh hội nghe đặng , thấy đặng lời TA đã từng nói , ngày nay mới nhận lãnh , NGÀI dặn-dò xong NGÀI day lại nhìn DI-LẠC TÔN-PHẬT chứng-minh thừa-kế gọi là ĐƯƠNG-LAI HẠ SANH DI-LẠC TÔN- PHẬT.
Tuyệt tác thay ! Đức BỔN-SƯ , Ngài chu-đáo đến thời sau , Ngài tận-tường duy-nhất chỉ có ĐẠI-LỰC mới khiêm-nhiệm đủ TOÀN-NĂNG với Ngoại-Lai xâm-chiếm . Lúc bấy giờ ĐỨC ĐẠI-LỰC mới công-dụng Sắc Thinh Hương Vị mà không nhiễm cốt nương theo tường tận ngoại lai chánh giác. Đối với Đại-Lực không riêng chi Nhân-Sanh Tứ-Loài, Vũ-Trụ Tam-Thiên, vì sao? Vì Đại- Lực Viên-Đạt huyền cơ đã từng nằm trong Bao Đãy, có quyền tháo gở ngoại lai độc nhiễm cho những bậc tín tâm tu cầu Tri- Kiến Giải-Thoát.
NGÀI mới ẤN-TRUYỀN cho tất cả những bậc tu hành thời Lạc-Pháp đặng tường TỎ và BIẾT : Ngoại-Lai xâm-nhập nó là: NGHIỆP-THỨC, NGHIỆP- CĂN, NGHIỆP-LẬU cùng NGHIỆP-CHƯỚNG , thâm nhập gọi là KIẾT- SỬ .
– Khi chưa rõ, chưa TẬN nó là VÔ-MINH .
– Chưa THÔNG nó là TÁNH di-chuyển là PHÁP-TÁNH.
– Chưa Tu-ĐẠT nó, là PHÁP-THÂN .
– Chưa tháo-gỡ còn mắc-miếu nó là PHÁP-GIỚI .
ĐỨC TĂNG-CHỦ TỊNH-VƯƠNG NHẤT-TÔNdạy đến đây , thở một hơi dài khoan-khoái , mỉm cười đọc THI :
Hiện TÌNH này còn gói nơi tim.
Một mai bóng chiếu gương thiềm.
Lời TA đã nói từ đêm hóa ngày.
NGÀI dạy tiếp , NGÀI nói tiếp những câu THÂM-TÌNH , nơi lời NGÀI thốt , Thời-Pháp NGOẠI-LAI khá tỉ-mỉ dễ nghe , nhưng đối với hàng Tứ Chúng chưa lãnh-hội đầy-đủ toàn- vẹn , nên đồng đứng lên thỉnh-cầu , khi được nghe NGÀI chấp-thuận ban-hành trong GIÁO-NGÔN ẤN-CHỈ . Tất cả thảy đều mừng rỡ Ghi-Chép PHỤNG-HÀNH .
NAM-MÔ THƯỜNG TINH-TẤN BỒ-TÁT MA-HA-TÁT
Ngày 16 tháng 04
GIÁO – NGÔN TRỰC – CHỈ
Lúc bấy giờ, ĐỨC TĂNG-CHỦ TỊNH-VƯƠNG NHẤT-TÔN đã kết-nạp GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ bài thứ Ba . NGÀI sai ông Tôn-Giả Pháp-Khả cùng với Pháp-Quyên mang vào Sài-gòn cho Tứ-Chúng tu-học . Còn một nửa sai KIM-XOA là đứa con gái của NGÀI ra Qui-Nhơn Đà-Nẵng hai tỉnh để cấp cho.
Mùa Kiết-Hạ NGÀI rất thong-thả, vì công việc chăm sóc có THU-MINH và KIM-OANH thu-xếp . Về phần Chánh-Điện tại Trung-Ương có Pháp-Hậu và Tạng-Thuận , phục vụ lúc NGÀI cần đến .
NGÀI nhập Chánh-Định hằng ngày không nhàm-chán , vì sao ? Vì CHÁNH-ĐỊNH THƯỜNG-TỊCH là nơi an trú , trong thời-gian thực-hành BỔN-NGUYỆN chờ đến nhập NIẾT-BÀN,do như thế không nhàm-chán. Có đôi lúc NGÀI thường nói với Tứ-Chúng : TA chỉ Đạo , tất cả những GIÁO-LÝ biên-soạn rất yếu-điểm tu-tập trên con đường TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT rất cần-thiết , những yếu-điểm ấy Đức BỔN-SƯ chưa giải kịp hoặc NGÀI đã giải, nhưng chưa thuyết-minh đúng với thời Hạ-Lai Mạt-Kiếp , đa phần sự tu-tập lười-trễ , tận-dụng kém Công-Năng của các ông, lại hay theo Kiến-Dục mà Thọ-Ngã . Do lẽ ấy nên tôi mới BỔ-SUNG THUYẾT-MINH rành-mạch đầy-đủ hóa-giải có tài-liệu tu-trì hậu-thế . Từ bài THI-VĂN đến GIÁO-LÝ cùng GIÁO-NGÔN chỉ tu-hành dụng TÂM-GIÁC mà nhận-lãnh tường-tận .
Các ông nên nhớ . Cứ mỗi một thời có một ĐỨC PHẬT Thị-Hiện , chính lời PHẬT đều là lời PHÁP-HOA Chánh-Giác, được gọi là DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA KINH để ghi nhớ đọc tụng , chớ chưa mấy ai nói, gọi là kinh Pháp-Hoa hay tự nhận là giải Kinh Pháp-Hoa cả. Ta đã từng biết như thế, từng nói như vậy. Sự tu-hành nên áp-dụng HẠNH-NGUYỆN mới tỏ lời minh-thuyết tu-trì. Các Ông gần bên ta nhiều hay ít, sự tu-hành lâu mau dài-ngắn, thời nơi Công-Quả của các ông tự-nguyện sở cầu , không sai-chạy, hay mất-mát, được lành-lẽ Công-Đức mà Chánh-Báo không sai-chạy . Vì sao ? Vì TA áp-dụng chỉ-đạo , con đường tu-tập tuần-tự theo BI-HOA-KINH Tối-Thượng , Bi-Hoa-Kinh là mỗi một bước đi của Chư BỒ-TÁT cùng Chư PHẬT đã đi , đến các hàng TỨ-THÁNH đang đi, tất cả sự tu-trì chứng-minh đều nơi Kinh BI- HOA thọ-ký. Các Bậc tín-tâm tu-trì PHẨM-HẠNH CÔNG-ĐỨC lớn-nhỏ gìn-giữ trọn-vẹn NHẤT-TÂM ĐẢNH-LỄ chu-toàn vẫn có Phước-Báo đến Chánh-Báo tùy nơi sở nguyện mà trọn hưởng.
Ta đã soi hoặc giả đã từng soi, đối với nhân sanh, bậc có nhân cách, biết tự trọng, biết nhân- cách con người, liền có uy-tín , còn đặng tất cả con người kính-nể, Chánh-Báo Phước-Điền thay, huống chi Bậc phát tâm tu-hành Chánh-Tín , làm gì không được GIẢI-THOÁT hay sao?
Những bậc đang tu, phát tâm hay Đại-Nguyện , rất cần thi-hành lời nguyện, đó gọi là BỔN- NGUYỆN chung cùng với Chư PHẬT. Bằng phát nguyện chưa thi-hành lời nguyện thời có phải chăng lý-thuyết chẳng thực-hành làm sao Tri-Kiến ?
KINH BI-HOA từ lời nói đến việc làm , từ nơi minh-thuyết phải giải quyết chu toàn không thiếu sót. Bi Hoa Kinh đối với bậc tu, từ nơi THỰC-HÀNH đến THỊ-CHỨNG, từ nơi HẠNH-NGUYỆN đến TỎ THÔNG , nên chi phải có CÔNG-NĂNG tu-trì đoạt thật tỏ rỏ bất nhị, Bi-Hoa-Kinh chính là một TẠNG- Kinh tất cả Chư PHẬT chỉ-đạo cùng chứng-minh từng thứ lớp cho các bậc, từ mỗi công đức đến Chư Bồ-Tát Tri-Kiến Giải-Thoát .
Trên bước đường tu-tập, nơi nhận-chân của các bậc tu-hành, rất khác-biệt nhau , do THÀNH-THẬT-TÂM , dù cho tâm ấy đang trong lúc lầm-mê chăng , nhưng Tâm Thành-Thật đã từng nung-đúc , nhờ như thế nên một ngày nào lộ-diện mà sở-đắc CHÂN-KHÔNG trên con đường tu BỒ-TÁT-HẠNH , bằng có sự THIẾT-THA-TÂM cầu Đạo ,trước sau vẫn toại-nguyện , vì sao ? Vì nương nhờ nơi BI- HOA-KINH thành đạt .
Khi đương thời ĐỨC BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI-PHẬT ngài thuyết-đạo Tối-Thượng, cho bậc hóa-giải chấp-mê, trí-tuệ công-năng kiến-tạo, cứu-cánh Giải-Thoát cầu đạo Vô- Thượng Bồ-Đề. Còn trên bước đường tu tập, tu-trì và-tu hành tuần-tự chứng-minh nơi BI-HOA- KINH cốt tận-tường sở-đắc.
Còn bậc thành-thật, thiết-tha-tâm, trí-tuệ kém, khó thực-tiễn hóa-giải chấp-mê, NGÀI liền chỉ thẳng nói thẳng kinh : PHẬT THUYẾT DI-ĐÀ-KINH cốt các bậc tu-hành chuyên-trì đọc-tụng, chuyên-trì Niệm Phật Di-Đà liền vãng-sanh TỊNH-ĐỘ . Như thế đủ chứng-tỏ tùy-thuận CĂN-CƠ chỉ-giáo , chứng-tri nơi BI-HOA-KINH thành-đạt. Nơi Kinh-Di-Đà-Phật-Thuyết , NGÀI khéo-léo nói thẳng TỰ-TÁNH thành-lập, TỰ-TÂM kiến-tạo, TỰ-NGUYỆN tu-trì thành-đạt như sau:
CHÍ-TÂM ĐẢNH-LỄ
Nam Mô An-Dưỡng-Quốc Cực-Lạc Giới Di-Đà Hải-Hội :
VÔ-LƯỢNG-QUANG-NHƯ-LAI
VÔ-BIÊN-QUANG-NHƯ-LAI
VÔ-ĐỐI-QUANG-NHƯ-LAI
DIỆM-VƯƠNG-QUANG-NHƯ-LAI
THANH-TỊNH-QUANG-NHƯ-LAI
NGÀI ẤN-CHỈ trong mười hai mục, cốt khai-thị cho bậc tu-hành tự-tánh viên-đạt , tự-tánh viễn-thông , tự-tánh hóa-giải cốt chính nơi TỰ-TÁNH THÀNH-LẬP , nơi viên-đạt kiến-tạo thành-lập viễn-thông.
NGÀI nói, các ông Tự-Tánh Thành-Lập Tu-Trì không có hạn-lượng , chẳng suy-tính biên- giới, chớ nên chướng-đối, chớ dung-dưỡng ảo-mộng tối-tăm, TÂM đặng thanh-tịnh dung- thông liền thành-tựu AN-DƯỠNG-QUỐC-CỰC-LẠC- GIỚI DI-ĐÀ HẢI-HỘI . Đó chính lời ẤN-CHỈ cho tất cả bậc tín-tâm thành-thật , tự-giác phải CHÍ-TÂM ĐẢNH-LỄ cốt lãnh hội lấy.
Nói đến Thiết-Tha Thành-Thật-Tâm thì đã quá nhiều bậc tu-hành thiết-tha thành-thật , họ vẫn NHẤT-TÂM ĐẢNH-LỄ nhưng khó nhận chân, thế nào để thực hiện nơi thiết-tha thành-thật- tâm cầu Đạo Bồ-Đề cho khỏi sai lạc CHÂN-TÔN mục-đích?
CÂU CHUYỆN : NHẤT-TÂM CẦU CHÁNH-GIÁC
Thời quá-khứ , có nhà Vua Chân-Thành cầu Đạo , rất thiết-tha tu-trì. Nhà Vua tu đủ chiều hướng, nhiều lúc muốn bỏ cung vàng để lang-thang cầu Đạo.
Nhà Vua gặp đặng Vị THƯỢNG-SƯ , nhà Vua bái-kiến cung-thỉnh đàm-luận . Nhà Vua hỏi Vị Thượng-Sư :
Làm như thế nào , tu như thế nào NHẤT-TÂM CẦU-ĐẠO CHÁNH- GIÁC ?
Vị THƯỢNG-SƯ từ-tốn nói : Ngày mai Bệ-Hạ làm một cây cầu , bề ngang vừa tầm một người đi qua , bề dài từ 10 thước hoặc có hơn vẫn được . Hai bên cây cầu bệ-hạ cho một số vũ-nữ lõa-thể múa-hát dọc hai bên cầu. Đồng-thời, bệ-hạ lựa một tên tử-tội , bệ-hạ bảo với nó rằng :Nhà ngươi tay bưng ly rượu đầy, đi qua khỏi cây cầu, rượu không đổ, ta tha tội cho, bằng rượu đổ thì sẽ bị tử-hình. Nhà Vua gật đầu thọ-lãnh thực-hiện.
Sau ba hôm, nhà Vua mời Thượng-Sư đến bái-tạ ơn nhờ Thượng-Sư đã giúp cho. Vì sao? Vì nhà Vua thực-hành , lưu-tâm truy-tầm nơi Tâm-Ý của tử-tội, hơn là đơn-giản nhìn xem sự diễn-hành nơi hình-tướng, nhà Vua đặng cái nhìn nơi KHÔNG-TƯỚNG mà Sở-Đắc TỰ-BIẾT . Biết đặng con đường Sanh-Tử quan-trọng cận kề , nên tử-tội chuyên-chú vào ly rượu không bị đổ mà thoát tội, chẳng nhìn nơi Sắc-Dục cầu vui, đó chính là điểm TINH-HOA chuyên-chú.
Khi nhà Vua nhận biết trọng-lượng con đường tu, chẳng lấy nơi ẩm-thực cao-lương mỹ-vị làm quan-hệ. Chỉ quan-hệ NHẤT-TÂM cổi-giải an-nhiên mà thôi, nhà Vua đặng cái sống GIÁC tỏ sáng soi hơn là lề-lối cầu sanh-sống.
Các ông nên biết : Sự NHẤT-TÂM thiết tha nó nằm nơi TINH-TẤN trưởng THÀNH , chớ nó chẳng phải ở nơi thiết-tha-tâm lười-trễ, chính nó vốn ở nơi HÓA-GIẢI đặng THÔNG, chớ nó chẳng ở nơi cố-chấp mà đến. Nó lại ở nơi CÔNG-NĂNG đặng TIẾN , chớ nó chưa phải nhất-tâm cầu-vái mà thành. Vì vậy nên chi bậc thiết-tha phải thực-hành TINH-TẤN , thực-hành HÓA-GIẢI tâm-ngăn, kiến-tạo CÔNG-NĂNG kết-quả NHẤT-TÂM ĐẢNH-LỄ . Đó gọi là Tu đúng , Hành đúng với mục đích CHÂN- TÔN CHÁNH-TÍN.
Bậc tu-hành đúng với Chân-Tôn Chánh-Tín , liền có đường dây TỰ-SỐNG , cùng mạch-lạc để sống. Còn bậc mới phát tâm, chưa từng mạch-lạc dù có tín tâm hay thiết-tha chăng vẫn tu hành lạc-lõng. Vì như thế nên con đường Tu Phật là một con đường chưa nên kể Tu đã lâu hay mới tu-hành. Một khi đường tu có mục-đích CHÂN-TÔN thì mới phát nguyện vào con đường tu BỒ-TÁT-HẠNH . Bậc Bồ-Tát-Hạnh thường hóa-giải mê-chấp , lúc giải xong ngăn- chấp, đó là món ăn thực nơi Bồ-Tát. Bồ-Tát tự quán lấy Tâm-Tánh di-chuyển nơi mình, lúc gặp phải hoàn-cảnh khó giải , bậc này công-dụng hóa-giải an-lành, tâm không phiền-trách, đó chính là Y-ÁO BỒ-TÁT. Bồ-Tát đã qua nhiều đối-tượng gây-cấn, đôi mắt thanh-tịnh như-nhiên, đó chính là Bồ-Tát NHÃN-TỊNH không còn đối-tượng , tận nhìn QUÂN-MINH CHÂN-GIÁC. Nhờ ĐẠO-HẠNH kiên-trì nên Bồ-Tát mới đặng đôi mắt NHÃN-TẠNG VỆ- TINH soi khắp Thế-Gian cùng Xuất Thế-Gian không lầm-lạc. Lại công-dụng PHÁP-ĐẢNH nơi đỉnh đầu nhập-định xuất-định viễn-thông Tam-Giới, có thể đo-lường trọng-lượng sắc-thái nơi các Cõi trong Tam-Thiên Vũ-Trụ , di-chuyển từng sát-na thoải-mái , không khác nào các nước văn-minh dùng PHI-THUYỀN khám-phá vũ-trụ . Do nơi CÔNG-NĂNG kiến-tạo tường- tận không còn mảy-may nghi-chấp , bậc này thường nói : Ta chẳng còn lấy một nghi chấp nào cả.
PHẬT ĐẠO ĐỐI VỚI GIÁO MÔN
Khi Đức BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI-PHẬT NGÀI còn Hiện-Thế , Ngài chỉ dạy Tứ- Chúng tu-tập , được gọi là PHẬT-ĐẠO (Đức Phật chỉ-dạy) , dưới mắt NGÀI không thành-lập Giáo-Môn . Vì sao ? Vì Chúng Sanh đa bệnh Phật tận dụng ĐA-HẠNH hóa-giải, nên chẳng có Giáo-Môn. Từ những cuộc Hành-Đạo vẫn không trụ-xứ , đến thuyết-giải vẫn không cho Trụ-Chứng, chỉ phát-tâm TRỰC-GIÁC mà thôi.
NGÀI chuyên về hóa-giải quan-niệm , hóa-giải tư-tưởng vọng-tưởng lầm-lạc nghi-chấp con người , NGÀI phân-định nơi tranh-giành tác-hại sát-sanh trên đường dây Sanh-Tử , NGÀI tan dẹp cá-nhân , cá-tánh , ban lời nói ra làm cho con người thông-thái đoan-trang cùng đỉnh-đạt, cốt tự-tánh hóa-giải, tự-giác trên con đường Sanh-Tử-Bệnh-Lão-Khổ . Từ chỗ tu sửa sai-lầm, đến làm thâm-nhập, gọi là TU-HÀNH .
Ngài là Bậc CHÁNH-GIÁC , NGÀI là Bậc TRI-ĐẠO . NGÀI đã từng thuyết-giải nơi khu rừng hoặc Vườn đất do bậc tín-tâm cung-thỉnh . NGÀI thuyết pháp 49 năm , bậc sở-đắc gọi là Chư Bồ-Tát. Mỗi vị Bồ-Tát duy chỉ sở-đắc một PHÁP-MÔN . Lúc NGÀI nhập Niết-Bàn có 12 TÔNG do Chư Bồ-Tát Sở-Đắc hướng-dẫn Đạo Chúng mới được gọi là ĐẠO-PHẬT.
Ngày nay , đến thời Hạ-Lai Thị-Hiện vẫn không Giáo-Môn , tùy CĂN , tùy DUYÊN hóa-độ . Từ nơi TẠNG-THỨC lầm-lẫn mờ-mịt đảo-điên , thọ-giới Tiên-Thần làm nơi tu-trì hư-vọng, nên Ta mới lấy NHƯ-LAI-TẠNG lập GIÁO hóa-giải nên được gọi là PHÁP-TẠNG PHẬT- GIÁO . Ta không xây-cất Chùa làm nơi Trụ-Xứ . Ta chỉ đến những bậc Tín-Tâm phụng-hành theo lời chỉ-giáo. Ta chỉ cần những bậc tu-hành TIN nơi lời hóa-giải , VÂNG để thực-hành tu- tập , KÍNH Bảo-Pháp Chân-Truyền , gọi là NHẤT-TÂM ĐẢNH-LỄ THÀNH PHẬT. Lời THỆ-NGUYỆN nơi Ta , chính là bài Thi :
KÍNH DÂNG ĐỨC THẾ-TÔN CHÁNH-BIẾN-TRI đã ban hành từ lâu trong các tập tài-liệu Tu-Phật.
Nay TA tuyên rõ , sự thực-hiện PHÂT-ĐẠO đối với GIÁO-MÔN chung khắp , lưu cho Tứ-Chúng Pháp-Tạng PHỤNG-HÀNH .
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
PHẬT-LỰC là một vấn-đề CHỦ-QUYỀN, toàn-năng toàn-diện ĐỨC-TRÍ thâu-đạt tất cả MA-LỰC làm chủ trùm khắp Vũ-Trụ Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới , Vô-Thượng-Đẳng Chánh-Giác thành PHẬT.
Ngoài ra, từ Phật-Giới Quốc-Độ đến hàng Đại Bồ-Tát tận-độ Chúng-Sanh , nhưng đứng nơi Quả-Vị đồng hướng Như-Lai-Phật cầu lấy Chánh-Báo Kim-Thân Đại-Báo Bát-Đại, chưa chủ quyền toàn-diện vẫn chưa gọi Phật-Lực.
Khó thay ! Khó Thay ! Mấy ai đã thấu đặng ? Bằng diễn-hành đặng Phật-Lực, mấy ai đã tin đặng nơi Diệu-Dụng Bồ-Đề Tối-Thượng ? Chỉ có PHẬT Chánh-Giác mới am-tường Chánh Giác. Từ nơi diễn-hành Hạ-Lai Mạt Pháp vốn liên-hệ với hiền-kiếp Trung-Thời và Thượng-Sanh đồng một.
Cao-quý thay ! Chính Mình cứu-độ , chính mình diệu-dụng trùm khắp Tam-Thế Chư-Thiên, ra vào các Cõi liên-hệ giao-cảm cùng Chư-Phật , cốt bồi-đắp cứu-vãng Chư-Thiên Tứ-Loài thoát nơi lầm-mê sanh-tử. Chính bậc Toàn quyền ứng-dụng , cho đến Vạn-Phật đều áp-dụng Phật-Lực như nhau , thế-giới rồng-người nào hay biết .
Tất cả Tứ-Loài Tiên-Thần Thánh-Hóa thảy thảy đều tôn-kính nơi Phật-Lực nhiệm-mầu cứu cánh , đại-lực cứu-độ , cứu-vãn con người , nương nhờ nơi Phật-Lực tu-hành Chánh-Giác.
Từ nơi Phật-Lực nhiệm-mầu cứu-thoát, cho đến phò-hộ bình-an chia ra quá nhiều lý-sự cầu cứu nhiều giai-cấp trình-độ mong-cầu. Do như thế, ngày nay đa số làm cho Đạo-Phật mang tiếng tiêu-cực hay bọn Ngoại-Giáo tế-lễ, đưa con người tín-tâm vào nơi tu-hành cuồng-tín van-cầu, hơn là tự chính bản-thân Sửa-Tánh, lập Thiện-Căn hóa giải Ma-Lực.
Đối với Phật-Lực dung-thông cứu-độ, không có riêng ai. Nhưng sự cứu-độ phải đồng nơi Thể-Chất, TÍN-TÂM THIỆN-CĂN VI-BẢN. Vì sao ? Vì Phật-Lực ở nơi THIỆN-CĂN ĐẠO-ĐỨC,TÂM-CHÍ BAO-DUNG xuất-xứ. Những bậc tu-hành hay bậc chưa tu chẳng hạn-lượng, miễn có bản-năng CHÂN-THIỆN, tâm-chí bao-dung tu-cầu tri-kiến, tu cầu thành Phật, liền đặng PHỔ-CHIẾU PHẬT-LỰC cứu-độ. Phật Đạo, ĐỨC BỔN SƯ đã nói lên bài Hương-Tán để tất cả những bậc tu hành hiểu biết như sau :
Mông-Huân, liên-trì hải-hội tất diêu-văn
NGÀI DẠY:
Lư hương này có chất thơm , vẫn là Pháp- Giới. Nơi chất thơm cuộn theo vầng khói không thể dùng văn tự giải nó đặng.
Nó tùy thuận nơi xứ- sở an- lành đồng-chất như chính nó đã nương hợp nơi Mây. Bậc tín- thành ở một phương nào vẫn đặng đáp ân. Bằng rõ đặng nó liền Chứng-Thị.
Đối với ĐỨC BỔN-SƯ là một vị cứu-tinh tuyệt tác, tâm-chí vẫn lo nghĩ đến muôn loài vạn-vật chìm-đắm nơi sanh-tử luân-hồi, cầu mong Phật-Lực cứu-độ , NGÀI đã đem hết Huyết-Tâm Vô-Thượng Ấn-Chỉ rõ-ràng, nhưng nào dễ chi đặng, vì chúng-sanh đang bị-trị do Ma-Lực, cho đến Chư Thiên, Chư Tiên-Thần đều bị-trị trong vòng-đai Ma-Lực, không thể Tự-Lực mà thoát nổi, chỉ tu-hành thiện-căn , thiện-chí trở thành ĐẠO-ĐỨC, thời Phật-Lực mới cứu độ thôi. Bằng chưa có Thiện-Căn Đạo-Đức khó mà phổ-chiếu.
Lại nữa : Từ nơi Nhân-Trí , Thiên-Trí đến A-Tu-La Thần-Trí mỗi nơi, mỗi Cảnh-giới đều phải công-dụng nơi Trí của mình. Đối với Hạ-Sanh từ Cõi NHÂN trở xuống thời phải dụng Nhân-Trí tối-đa. Khi Thượng Sanh Cõi Trời mới công-dụng Thiên-Trí hoặc Tiên-Thần Trí, thành thử nơi Trí-Hóa có mức-độ hạn-lượng. Chỉ có THIỆN-CĂN THIỆN-CHÍ HƯỚNG-THƯỢNG liền đặng thoát-sanh về Trí-Tuệ, bằng cố-hữu thời nó vẫn đứng yên, có như thế nên gọi là: Chúng-Sanh-Giới.
Bậc đã hoàn-tất, thành-tựu Công-Đức sung-mãn, thành Phật, vượt-tầm trí-tuệ Vô-Thượng Đẳng-Trí tận-dụng Phật-Lực, mỗi mỗi đều Thị-Hiện , có thể trong một ngày hoặc một sát na thị-hiện trùm-khắp Vũ-Trụ Tam-Giới , làm thế nào Nhân-Loài Thiên-Loài và Tiên-Loài cho đến Chư Bồ-Tát hay biết đặng ?
Phật-Lực rất bình-đẳng an-nhiên , bao-dung quảng- đại do đó nên khi Bậc Tu-Hành tròn nguyện-lực, thời Thân-Tâm bao-dung bình-đẳng kia thị-hiện bao-dung bình-đẳng vô-lượng Công-Đức- Phật mà tiến tạo Quốc-Độ. Quốc-Độ là hàm-chứa trang-nghiêm Bảo-Pháp do Phật -Lực hiện-hành, Chư Bồ-Tát an-trú. Do như thế nên bậc Thiện-Căn , Thiện-Chí đến mức nào chăng làm thế nào nhìn-nhận đặng.
Đến nỗi, khi ĐỨC BỔN-SƯ còn tại thế, Tôn-Giả A-NAN trí-tuệ đa-văn, thiện-căn thiện chí hãy còn nghi Thế-Tôn trụ-xứ đang sống nơi TA-BÀ Thế-Giới Ô-Trược, Ngài bèn dùng Phật-Lực đưa A-Nan thị-chứng Quốc-độ, bình-đẳng an-bang, nơi kinh-pháp đã nói.
Tuyệt-tác thay ! Những điểm lành, tu kết-quả không hai tướng , kinh-pháp chỉ rõ, lời dặn tận tường, tất cả tu nơi Phẩm-Hạnh nào thảy đều không mất. Chớ nên vu-vơ như người đang còn nghi-chấp. Mỗi một điểm lành con người đang kiến-tạo, dù cho những điểm ấy đặng Phước-Báo Nhân-Thiên, còn hơn sa-đọa tăng-thượng.
Kinh DUY-MA đã nói nơi Phẩm PHẬT-QUỐC như sau:
TRỰC-TÂM là TỊNH-ĐỘ của Bồ-Tát, khi Bồ-Tát thành Phật, chúng- sanh không dua-vạy sanh sang nước đó.
THÂM-TÂM là TỊNH-ĐỘ của Bồ-Tát, khi Bồ-Tát thành Phật, Chúng- Sanh đầy đủ Công-Đức sanh sang nước đó.
NHẪN-NHỤC là TỊNH-ĐỘ của Bồ- Tát, khi Bồ -Tát thành Phật, Chúng-Sanh đầy-đủ 32 tướng tốt sanh sang nước đó.
Phải chăng TU-TẬP , TU-TRÌ cùng TU-HÀNH , các PHẨM-HẠNH , mỗi Phẩm đều Chánh Báo đáng kể chăng?
Những bậc tu, Thân-Tâm bao-dung , Trí-Tuệ thanh-thoát, trí hóa bình- đẳng, bất ngờ sở-đắc BÌNH-ĐẲNG TÁNH-TRÍ, Tâm lại thường quán khắp Vũ-Trụ, sở-đắc QUÁN-ĐẢNH NHƯ-LAI , thân-tâm CÔNG-ĐỨC- PHẨM cúng-dường NHƯ-LAI.
Sau khi thành Phật thân-tâm là Như-Lai trùm khắp. Đối với Bậc Chánh-Giác thân vốn Như-Lai, đó chính như-nhiên , không hai tướng.
Nơi Kinh DUY-MA , Ông A-NAN xin sữa:
Ông DUY- MA quở trách : Ông A-Nan , ông chớ nên nói thế, Như- Lai bất-diệt , Như-Lai nào có bệnh, ông nói như thế bọn ngoại-giáo nghe, họ tự sanh lòng sanh-diệt. Làm cho A-Nan bỡ-ngỡ chưa phân định được, liền bưng bình-bát trở về. Sau đó trên hư-không mới gọi:Ông nên lấy sữa để ĐỨC THẾ-TÔN dùng. Vì tất cả Chúng-Sanh đang bệnh nên Phật mới thị-hiện bệnh, chớ nào phải NGÀI bệnh.
Thật cao-quý thay! Có mỗi một điểm tựa nhỏ mà Chánh-Báo vô-tận, thân-tâm bao-dung, biết trọng cho tất cả mọi người, tha-thứ cho tất cả mà tự đặt mình vào cương-vị quá ư tuyệt-mỹ. Do đó nên chi Bồ-Tát phát Đại-Nguyện rằng : NHƯ-LAI VÔ-BIÊN THỀ-NGUYỆN SỰ .
Những bậc tu-hành , trên con đường tu-tập vẫn tu cầu Trí-Tuệ BÁT-NHÃ cốt cúng-dường NHƯ-LAI . Trí Bát-Nhã chưa hẳn là trí rỗng không, Trí Bát-Nhã chính là trí bao-dung không thọ-chấp tự-cao, tự- mãn, tu- hành đến rốt- ráo tận Giác.
Thời ĐỨC BỔN-SƯ cho đến Thượng-Kiếp nơi Chư Phật quá-khứ, thảy đều công-dụng, tận-dụng Phật- Lực. Chính nơi NGÀI , tình-trạng đương-kim chỉ-đạo cho Tứ-Chúng, chẳng biết làm thế nào cho Tứ-Chúng tin được lời VÀNG phát hiện từ nơi KIM-THÂN Phật-Lực tiềm năng vô lượng trao tặng Bảo-Pháp để cho sự lãnh hội tương thông, do đó nên chi NGÀI trang-nghiêm chỉ thẳng. NGÀI nói : Các ông hãy tin lời TA nói thật , cốt nhắc nhở sự lưu-tâm lãnh-hội, hai nữa, bậc rõ đặng giá trị Kim-Thân Phật-Lực thời liền Sở-Đắc Chân-Lý do nơi chuyển-luân Phật-Lực tương-thông. Khi mà ĐỨC BỔN- SƯ cầm cành hoa đưa trên hội- trường, chính MA-HA CA-DIẾP nhận lãnh liền chứng-thị :
THỰC-TƯỚNG VÔ-TƯỚNG TAM-MUỘI PHÁP-MÔN, đó phải chăng tương-thông Phật-Lực?
THẾ NÀO LÀ: PHẬT-LỰC và PHẬT-TÁNH PHẬT-LỰC viên-dung bất-biến chủ-quyền sáng-soi, còn Phật-Tánh thường nhiễm hay trú , PHẬT-LỰC toàn-năng chủ-lực . Từ nơi Phật bị che mờ nơi Tánh, nên gọi là PHẬT-TÁNH . Phật-Tánh khi bị Tánh liền trở thành nhiều tánh, nơi Tánh thường-sanh, nơi thường-sanh nên thường diệt. Bằng nơi Tánh thường sanh hay diệt không trụ-chấp gọi là Như-Nhiên Tánh, nếu trụ-chấp bị thọ-chấp gọi nó là Nghiệp.
Các bậc tu-hành sửa Tánh cốt sáng soi đặng Tỏ-Tánh mới tu đạt Bản Thể-Tâm, gọi là Minh-Tâm Kiến-Tánh.
Nơi Tánh hay sanh thường diệt, năng biến lầm mê hay nhiễm bị nhiễm. Căn cứ mỗi một vị hay mỗi chúng-sanh thảy đều có một Căn Tánh tập khí che Phật, nên mới có câu: Nhất-Thiết Chúng-Sanh giai- hữu Phật-Tánh.
Nơi Căn-Tánh Tập-Khí, chính căn-tánh sanh-tử không ngoài BA- CÕI, SÁU-ĐƯỜNG . Có bậc căn-tánh ưa chuộng Thiên-Tiên nơi Ba Cõi. Có kẻ thọ bẩm ưa thích tàn-bạo, hoặc ngay thẳng từ-tốn như : THIÊN , NHÂN , A TU-LA , SÚC-SANH , NGẠ-QỦY cùng ĐỊA- NGỤC .Tất cả từ ngôn-ngữ đến hành-động phát-hiện tiêu-biểu cho mỗi GIỚI Căn-Tánh Tập-Khí .
Mỗi một Tánh tập-khí , hiếm bậc thật tỏ rõ nơi Căn-Tánh mình. Vì sao? Vì mỗi một Tánh cơ-bản tập-khí, ngoài ra có hằng- hà sa-số Tánh ra vào thay đổi phụ-thuộc. Do nơi Vọng-Khởi nên nó diễn-hóa mà thành nhiều Tánh. Từ con người cho đến Chư Tiên-Thiên trong Tam- Thế Vũ-Trụ bản-thể thảy đều vòng-đai luân-hồi sanh-tử.
Tánh phụ-thuộc diễn-hóa gọi là Ma-Tánh. Khi chưa qua nổi sự ngăn- cản trở-ngại gọi nó là MA-LỰC. Bằng thâm-nhập thời phải lai-sanh nơi Cõi chủng-tánh đã thọ-nghiệp gọi là Chủng-Nghiệp. Sự Luân-Hồi nơi sanh-tử chẳng tìm đâu xa, chỉ nhìn ngay lúc còn hiện-diện sinh- sống , gọi là : Nó ăn ở như thế nào, khi chết sẽ sanh về nơi ấy.
Bậc tu-hành lúc qua trở-lực , khi tận-thấu diễn-hóa vạn-pháp mới biết đặng không có Ma-Tánh , qua từng trở-ngại tế-vi , do nội-tâm phát hiện mới liễu-thông sự ngăn-cách cản-trở nơi Ma-Nghiệp , nơi nghiệp- lực của Ma-Lực nó rất đáng kể. Khi các bậc tu-hành qua các trở-lực, nhiếp-độ trong-sạch căn-tánh liền CHÂN-GIÁC Ba-Cõi, Sáu- Đường, trở thành TỰ-TÁNH PHÁP-THÂN, rốt-ráo Pháp-Thân mà Chánh-Giác Bát-Đại . Bằng chưa Chánh-Giác , Nơi Tự-Tánh , Tự-Ngã Pháp-Thân thời thảy đều Pháp-Giới Phật-Giới . Khi đã vương nơi Phật- Giới an-trụ Pháp-Thân , thời-gian liền thị-hiện Tam-giới Độ- Sanh Tận-Giác Vô-Thượng Chánh-Giác Bát-Đại Niết-Bàn .
Thật khó-khăn thay! Bậc VÔ-THƯỢNG-CHÁNH-GIÁC chủ-quyền Phật-Lực thành-Phật . Còn cái khó nữa là những bậc tu-hành gặp đặng Phật , nên chi ông A-NAN mới nói trên bài:
KHAI KINH KỆ
Mở đầu Khai-Kinh, thật là VÔ-THƯỢNG thậm-thâm vi-diệu PHÁP. Nơi Bá-Thiên vạn-kiếp khó gặp, tôi khiêm-nhiệm lời văn đắc bảo-trì. Nguyện giải toàn lai chân-thật nghĩa.
Những sự khó-khăn trên , thành Phật và gặp đặng Phật, đó là điểm nội-dung chớ chưa phải là Tâm-Trạng. Nơi Tâm-Trạng của bậc VÔ- THƯỢNG Tận-Độ Chúng-Sanh mới thật khó-khăn vô-kể.
Chúng-Sanh đa bệnh PHẬT phải Đa-Hạnh, tùy thời mà tận-độ, tùy nơi THỂ mà HIỆN-THÂN . Mặc dù Phật-Lực chủ quyền, nhưng nào ai hay biết? Duy chỉ có Phật mới biết đặng Tâm-Trạng chung của BỔN- NGUYỆN mà thôi . Trước sự đồng cảnh ngộ , đồng tình-trạng gay go mâu- thuẩn cùng đồng định-hướng đưa cho tất cả các tín-tâm đến Căn-bản THƯỜNG-CHÂN TỎ-TÁNH gọi là Đồng BỔN-NGUYỆN NHẤT-THIẾT-TRÍ , lý-sự khó-khăn, đồ-chúng gây tạo, thời-thế suy-tôn hay bài-bác, con người có ưa-chuộng tín-tâm hoặc bất tín đều phải trải qua cho TRÒN-NGUYỆN. Đến nổi , ĐÔNG-ĐỘ DƯỢC-SƯ lập ĐẠI-NGUYỆN , TÂY-ĐỘ A-DI-ĐÀ phát nguyện TÂY- PHƯƠNG CỨU-ĐỘ . Từ nơi ngôn-thuyết của Chư Bồ-Tát, từ chỗ Phật Thuyết ĐẠI-THỪA TỐI-THẮNG DIỆU- ÂM nơi PHÁP- HOA-KINH Đại-Lực .
Tình-trạng Đại-Bi nơi Chư Phật cùng Chư Vị Bồ-Tát đối với Chúng- Sanh vô-kể , khó nghĩ bàn . Vì sao ? Vì chúng-sanh mãi lầm-mê đi vào ba đường ác, Đức Phật ĐÔNG-ĐỘ nguyện đưa đến TRỰC-GIÁC cho chúng-sanh. Khi chúng-sanh tu-hành còn non-nớt , túc-mạng ngắn- ngủi , lâm-chung NGÀI nguyện đưa về TÂY-PHƯƠNG TỊNH- ĐỘ để tiếp nối tu-hành . Chúng-Sanh vì lầm-than cực-khổ tai-nạn liên- hồi, liền có QUÁN-THẾ-ÂM cứu-độ, lúc tu-hành quên-nhớ không chừng, tín-tâm đặng ĐẠI-THẾ-CHÍ BỒ-TÁT giúp-đỡ. Nơi Bổn-Nguyện qua từng thời có PHỔ-HIỀN-HẠNH trợ giúp, thật ra không thể nào kể hết, từ Phật Sát-Na đến VI-TRẦN-PHẬT tất cả thảy đều công-dụng TÌNH DUY-NHẤT Phật-Lực cứu-độ chúng-sanh . Nơi Tình Duy-Nhất kia lại có trạng-thái Nghiệp-Chủng Chúng-Sanh vật lộn , thật khó-khăn vô kể. Đó phải chăng đồng Tình-Trạng gay-go mâu-thuẩn chăng ?
Cho đến nỗi , TA phải TỰ-NGUYỆN :
Dù Nhân-Sanh có bạc-đãi Ta Chăng , Ta vẫn đưa cho con người GIÁC-Ngộ . Nực cười thay cho BỔN-NGUYỆN ĐỒNG-SANH : đích chung MỘT lối , diễn-tuồng HAI phương , nơi Bài-Thi TỰ-THÁN ngày11 tháng 7 năm 1977 (Đinh Tị) rằng:
TỰ THÁN CẢM THI
CHÍ-TÔN. NGÀI thấu chăng NGÀI.
THƯỢNG-SANH, HẠ-KIẾP diễn hai thứ tuồng
NGÀI THÁI-TỬtriệu đời vang tiếng.
Tôi CƯ-NHÂN bốn-biển nào hay
Bên vai bao đãy ăn mày.
Chung thời MỘT hướng , phơi bày hai phương.
Nói ra Thiên-Hạ xem thường.
Nào ai đã hiểu con đường ĐỒNG-SINH.
Thời HẠ-KIẾP sống mông-mênh.
THƯỢNG-SANH tuy thế dân tình ấm-êm.
Hạ-Kiếp điên-đảo sanh phiền.
Phần TÔI gánh chịu, lời NGUYỀN HẠ-LAI .
Sức kiệt sức, gối vùn-vai.
CHÍ còn vận-chuyển PHẬT-ĐÀI còn xây.
Làm xong dân-chúng sum vầy.
BÓNG nầy đã KHUẤT, ĐÔNG-TÂY khó tìm.
Nhắn lời, TÔI chẳng nói thêm.
ẤN-CHỈ TƯ, BẢO-PHẨM CHÂN-TRUYỀN NHẤT-TÔN.
Khuyên PHẬT-TỬ khéo BẢO-TỒN .
Non còn Bảo Vật , nước còn trơ-trơ.
Còn TÌNH Chân-Tử đón chờ.
Thời còn HIỆN- THỂ , giải mơ phá lầm.
Trăm năm vẫn nhớ trăm năm.
Lời Thơ CẢM-THÁN , Trăng Rằm TRUNG-THU .
NAM MÔ ĐẠI NGUYỆN DIỆU ÂM PHẬT
GIÁO NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ SÁU :
Từ khi PHẬT-ĐẠO hiện-hành . Thái-Tử Tất-Đạt-Đa thành Phật, liên- tiếp Chư-Tổ thừa-kế , Chư Bồ-Tát đồng-sự , kết-nạp tinh-hoa lời thuyết-ngôn tài-liệu , trở thành Tam-Tạng Kinh-Điển. Kinh-Điển là một tài-liệu quý-giá , quý ở nơi nung-đúc con người từ nơi mê lầm tác- quái trở thành Vĩ-Nhân cao-quý sống với Nhân Loài bình-đẳng thân-yêu, chủ-yếu cứu-vãn Nhân-Loài vạn-vật tránh điều ghét-bỏ sát- hại lẫn nhau, đồng nương theo tài-liệu thực-hành LÝ-SỰ TƯƠNG-SONG Trực-Giác, gọi là TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT.
Hiện nay trên một nghìn năm trăm năm, sự lãnh-hội điều-hành bị sai- lệch , thực tu chưa đầy-đủ công-năng đúng với Tinh-Hoa Phật-Đạo, hiểu biết không đồng khó phát-triển, lại thêm vào nơi tài-liệu Y-Kinh trở thành giáo-điều lạc hướng, dù có kết-quả chăng vẫn kết-quả nơi nhận-định của mỗi bậc tu-hành chớ chưa có năng-lực trực-chứng.
Tài-liệu thật dồi-dào phong-phú, từ lời minh thuyết Phật-Ngôn, đến trực-chỉ trọng-yếu , Nhân-Sinh, cùng các bậc tu-trì, thường nghe hay đọc tụng nhưng hiếm bậc đã hiểu biết chứng-thị tu-hành. Thật là thuốc hay, linh-dược cứu-trợ vô cùng tuyệt-tác, nhưng chưa biết sử-dụng thì sao? Vì nó như thế, nên làm cho Chúng-Sanh và Phật-Đạo tự mang MẠT-PHÁP.
Sự đồng-ứng vốn như-nhiên, do Vũ-Trụ với con người đồng THỂ, chẳng khác nào bộ-máy phát-điện cùng với dây điện thường dùng thắp đèn ở các nhà, chỉ có bóng đèn lớn nhỏ khác nhau, đối với đồng ứng cũng như thế.
Muôn loài chúng-sanh trong Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới, tuy khác nhau ngôn-ngữ, nhưng THỂ thông-minh vẫn như nhau ,thảy đều đồng hiểu biết, chỉ DỊ-BIỆT phân-đối về trình-độ cùng giai-cấp thôi.
Nơi đồng-ứng có lợi về Trí-Hóa, tựa như ngọn ánh-sáng để cho Nhân- Loại bước đi, nhất là những bậc cải-tiến bản-thân Đạo-Đức, nung-đúc từ nơi con người Phàm-Phu trở thành Vĩ-Nhân hay bậc THÁNH-TĂNG XUẤT-THẾ . Lại có hại cho kẻ Tự-Ngã Cá-Nhân, Cá-Tánh Thọ-Chấp tự-hào, mới tu-hành đầu hôm, sớm mai vội cho mình Đắc- Đạo, mà sanh ra ngông-cuồng Tăng-Thượng sa vào đường Ác-Đạo.
Những bậc có chí Tu đạt Tri-Kiến Giải-Thoát, hay bậc Vĩ-Nhân, thường tự soi nơi bản-thân mình đặng bổ-sung cho quần-chúng, thường tự-lượng nơi tríhóa của mình, kiểm lại hành-động tư cách đối xử với mọi người. Các bậc nầy thảy đều nhìn-nhận Lý-Thuyết chớ chưa Thực-Hành đặng bao nhiêu, có hiểu như vậy mới cố tiến Lý-Sự tương-song Chân-Nguyên Trực-Giác. Đó cũng là bậc tự vươn mình hơn con người một bậc.
Đối với tài-liệu Phật-Đạo là một linh-dược tuyệt-tác, biết tỏ rõ nguồn mê, do cá -nhân tự-mãn nên mới thành-lập hai chữ TU-HÀNH vừa sửa lại bản-thân, phải hành sự bên ngoài để tiếp-thu bá-thiên vạn lối lầm-lẫn nơi Đồng-Ứng. Có nhiều bậc tu-hành kiên-sợ đồng-ứng tác- quái nên tư-tưởng hiền-lành cốt khỏi sa-đọa. Có bậc thường xét lỗi- lầm, tự-nguyện Sám-Hối, tầm phương hóa-giải nghiệp-thức, nghiệp- căn vọng-đảo, chuyên-trì tu-tập bao nhiêu vẫn nhìn thấy chính mình đảo-vọng, tìm nơi xa-lánh, tận-diệt trở thành Tiên-Đạo hay hàng Nhị- Thừa Tu-Chứng.
Chỉ bậc Tu-Đạt Tri-Kiến phải lướt qua tất cả những đối-tượng bất-an của kẻ đồng-ứng chưa hòa hợp, cốt dứt đoạn phiền-não . Dùng Hỷ-Xã khỏi vướng nơi sự lý luân-hồi vay-trả. Dùng Kinh-Điển làm hướng tiến thân-tâm. Khi bậc nầy nói lên toàn lời Đạo-Đức Chân-Thiện. Ngược lại soi lấy thân-tâm chưa hẳn đã thực-thi đúng, có như thế mới thực-hành Lý-Sự Tương-Song, có như vậy mới bĩnh-trị lòng tự-mãn khỏi lầm-lạc cho mình Sở-Đắc.
Đối với đồng-ứng thì như-nhiên sẵn-sàng tùy thuận theo sở-nguyện của Tứ-Loài trong vũ-trụ. Từ nơi Thượng cho đến Hạ mỗi mỗi đều tùy- thuận đồng-ứng. Từ con người cho đến Tiên-Thần Thánh-Hóa phải lầm nơi đồng-ứng.Thật là Bản-Thể NHƯ-NHIÊN Bình-Đẳng một khi bậc tu đạt quả-vị VÔ-THƯỢNG CHÁNH-GIÁC mới tường tận, ngoài ra lầm-mê khó nhận chân ra Như-Nhiên Bình-Đẳng nổi.
Vì sao? Vì các Thú Vui bình-đẳng đồng-ứng cho khắp GIỚI ở các Cảnh-Giới, các Cõi cho đến tầm lớp con người, tầm trình-độ và giai cấp thảy đều nhận thấy thú-vị. Như: Bậc thích đánh Cờ-Tướng hay Chơi-Tiên hoặc giỡn tiền bằng lối cờ-bạc, từ nơi này chốn kia, Tịnh hoặc Bất-Tịnh cho đến Môn-Phái cùng các Tôn-Giáo tu-hành, mỗi cuộc chơi đều có thú-vị nơi cuộc chơi, mỗi Môn-Phái Tôn-Giáo đều có màu-sắc thú-vị, sự thú-vị tuy riêng, nhưng THỂ thú-vị vẫn chung thú-vị đồng-đẳng. Có phải đồng-đẳng như-nhiên chăng?
Có thể nói: Bậc đánh Cờ-Tướng, say-sưa thú vị nơi đánh-cờ, lại ghét kẻ Chơi-Tiên, kẻ chơi-tiên ghét người Cờ-Bạc, kẻ cờ-bạc mê-man cờ- bạc, chẳng ưa thích những bậc tu-hành, thậm-tệ bậc tu-hành chẳng ưa Tôn-Giáo sắc-thái khác nhau, hoặc Tông này chỉ Tông kia làm nơi mâu-thuẩn. Nó như thế nên mới tự-sanh bất-đồng, nơi bất-đồng chia thành từng Giới Đồng để từng Giới ưa-chuộng nhau, có phe-phái, đồng với chưa đồng nơi nghiệp-thức đồng-ứng tương-sanh bất ổn định.
Phật và Chúng-Sanh chỉ hơn nhau nơi Tận Biết và chưa được biết. Nên Phật thời KHÔNG có GIỚI. Chúng Sanh có giới bị lầm-mê. Phật Không-Giới tròn Giác.
THẾ NÀO LÀ KHÔNG-GIỚI TRÒN-GIÁC?
Khi ĐỨC QUÁN-THẾ-ÂM NHƯ-LAI-PHẬT , cho đến sau này QUÁN-THẾ-ÂM Bồ-Tát . Sở-Đắc VIÊN-DUNG BÌNH-ĐẲNG đồng ứng NHƯ-LAI , phát-nguyện nơi PHỔ-MÔN-KINH bất cứ mỗi một ai, tùy theo sở-nguyện liền hiện-thân thuyết-pháp , Ngài nói : Bà- La-Môn, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di , vv… cầu lấy TA, Ta liền hiện-thân Bà-La-Môn, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di thuyết-pháp. Đó phải chăng đồng-ứng hiện-thân đồng-đẳng không giới-hạn biệt-phân, trở thành Tu- Quán Như-Lai, đặng Như-Lai Thọ-Ký chăng?
Tài-liệu Phổ-Môn-Kinh là một tài-liệu tuyệt-tác chỉ thẳng cho đời này, đời sau các bậc tu-hành chớ Tịnh mà tán-dương, Bất-tịnh chê-bai phân-đối đặng chính mình tu Phật-Thừa khỏi gián-đoạn tu Như-Lai thề-nguyện SỰ, thật là một môn thuốc hay, linh-dược khéo làm cho bậc tu-hành biết sử-dụng, liền đặng TRI-KIẾN Như-Lai Chánh-Giác.
Thời quá-khứ , Tiền-Thân ĐỨC BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI-PHẬT. Còn hiện-thân Bồ-Tát , gọi là: THƯỜNG-BẤT-KHINH Bồ- Tát , nơi Kinh Pháp-Hoa nói :
Khi bấy giờ Thường-Bất-Khinh Bồ-Tát sở-đắc Hiện Nhất-Thiết Sắc- Thân Tam-Muội . Nhìn thấy tất cả chúng-sanh đều là Ứng-Thân Phật hiện Thị-Hiện , NGÀI đặng biết đồng-ứng Như-Lai , hiện-hành bá- thiên vạn-hạnh, đi-đứng nằm ngồi đầy-đủ tư-cách tốt-xấu sạch-dơ. Ngài liền đến từng người lễ-bái thưa gởi :
CHÍNH CÁC ÔNG LÀ PHẬT.
Tất cả thảy đều cho Thường-Bất-Khinh điên. Chớ nào hay, nào biết đặng Bậc say sưa đánh cờ kia mà say sưa Đạo Phật tu vẫn thành Phật. Kẻ chơi Tiên chìm đắm nọ, mà tu trì chìm đắm tỏ ngộ vẫn đặng thành Phật thì sao? Đó là Không Giới Tròn Giác vậy.
Thuyết-Minh Đồng-Ứng là một Pháp-Môn PHẨM-HẠNH nhiếp-độ , Chư Bồ-Tát phụng-hành , Chư-Phật vẫn ứng dụng. Chư Tiên Thiên cho đến hàng sơ trụ vẫn lầm lạc, làm sao tất cả bậc tu-hành khỏi lầm nơi đường tu của mình mà tránh khỏi thọ-ngã.
Thật cao-siêu ý-nhị thay cho đồng-ứng. Từ hàng Thi-Văn, Văn-Hào, cho đến Thuyết-Minh Vĩ-Nhân bằng-biện. Từ nơi Gia-Cát Khổng- Minh cho đến Lão-Tử, Mạnh-Tử cùng Khổng-Tử chỉ Thuyết-Minh Đồng-Ứng chớ chưa tận-dụng bản-năng . Vì như thế nên miệng chính mình nói, nhưng tâm mình chưa biết mà nơi miệng đã nói.
Các Bậc tu-hành nên khôn-khéo, nên thịnh-trọng lúc đang tu, khi thuyết-pháp rất hay in-tuồng Thánh-Tăng hoặc Tiên-Thần Thánh-Ý. Nhưng ngược lại chính bản-thân nơi mình chưa hiểu đặng lời thuyết- minh trên, hay chưa đặng quả-vị như thế để tương xứng, chớ nên thọ- ngã. Chư Bồ-Tát đã gặp trường-hợp như vậy, liền thưa gởi với Phật. PHẬT dạy : Chính Ông tín-ngưỡng trực-tâm, trực-thọ, nên nương vào Công Đức Như-Lai mà thuyết-pháp.
Có bậc tự tu nơi tự-tánh hóa-giải các chấp-nghi , nhờ như thế bắt đầu phát trí-tuệ, thường tĩnh-tọa nơi thanh-vắng, suy-nghĩ tự giải- đáp nơi chỗ nghi ngờ, hoặc có bậc khá hơn đương nhiên tự nơi mình thuyết-pháp với mình. Khi mở quyển Kinh HOA-NGHIÊM mới thấy lời PHẬT nói : Các ông nên biết Bồ-Tát nương nơi Công-Đức Như-Lai. Tĩnh-Tọa an-nhiên , đồng thuyết pháp cho vô số chúng-sanh nơi mình đặng nghe Pháp , lãnh-hội thời thuyết-ngôn , tất-cả thảy đều đặng nhiều môn giải-thoát , đó là những vị đã từng cúng-dường NHƯ-LAI nên ngày nay mới nói như thế . Bậc này tán-thán vô-lượng Kinh-Pháp, Kinh-Pháp nhắc-nhở cho bậc đang tu-hành qua từng kiếp quên nhớ, ngày nay đồng-ứng mà nhớ.
Thuyết-Minh Đồng-Ứng rất dễ lầm, dễ nhận, đối với kẻ Thiếu-Trí Đa-Văn ưa thích kỳ-vọng mà lầm-nhận . Còn ngoài ra bậc tu-cầu Chánh- Giác , biết tự-trọng bản-năng Công-Đức-Phẩm. Mỗi một khi buông thả nương vào đồng-ứng thề-nguyện HỌC . Bậc này có trạng thái xét lại bản-năng, ĐẠO-HẠNH cùng Đức-Tánh cốt chứng-tri căn-bản , thật khó lầm nhận phút cuối của một thời đang tu.
Thời bấy giờ, có vị Thiền-Sư Bồ-Tát Sở-Đắc Thần-Thông , dạo khắp Tam-Thiên Thế-Giới Rồng-Người. Khi dùng Lậu-Tận-Thông biết đặng Nghiệp-Lậu Chúng-Sanh. Dụng Tha-Tâm-Thông tỏ rõ Tâm-Chí Rồng-Người. Dùng Túc-Mạng-Thông quán-sát tuổi Thọ từng các Cảnh-Giới. Dụng Thần-Túc-Thông tận rõ nơi Thọ-Ngã Chư Tiên Thiên. Thiền-Sư Bồ-Tát tận-dụng thường dùng Ngũ-Nhãn, Lục- Thông, đo-lường tất cả Nhân-Thiên Tiên-Loài thảy đều Chánh-Báo Bị-Sanh gây tạo thân-hình , thân-mạng không thực-thể . Vị Thiền-Sư Bồ-Tát ngạc-nhiên tự thốt ra nơi cửa miệng : Lạ thay , có thân-mạng chưa có CHỦ-QUYỀN , sống theo Sanh-Diệt Đồng-Ứng, chưa Tận- Giác, chỉ là CON-NỘM mà thôi.
Nay Ta công-dụng Thần-Thông Đồng-Ứng Nhãn-Tạng trí-hóa đặng biết vẫn lầm nơi Pháp-Giới tận Biết , Tận-biết từ ngoài đến trong , từ trên đến dưới mà chưa Tận-Giác Thân-Mạng nơi TA , chưa thấu tường-tận Bản-Thân , Thị-Chứng đường dây Sanh-Tử , thì làm sao Tận-Giác?
Vị Thiền-Sư Bồ-Tát tự hỏi xong , lặng lẽ đến một phiến-đá an-dưỡng, đồng soi khắp thân-tâm qua hàng trăm tuần, nghìn lớp-lớp, thời-gian Tận-Giác , CHỨNG-THỊ CHÁNH-GIÁC .
Sự Đồng-Ứng Như-Nhiên Bình-Đẳng giúp-ích về Trí-Tuệ tư-tưởng, thâu-đạt Tam-Thân Tứ-Trí Ngũ-Nhãn Lục-Thông lần đến Chánh-Giác, đối với bậc nương theo để tiến-bộ. Bằng Thọ-Chấp, Thọ-Ngã thảy đều không lợi-ích , phải vươn mình trong sanh-tử quay-cuồng. Nên chi Đức DI-LẠC TÔN-PHẬT đương thời Hiền-Kiếp, NGÀI mới để lại bài THI:
KHUYẾN-TU
GHÉT-THƯƠNG PHẢI-QUẤY, biết bao là.
Xem-Xét đo lường giữ lấy ta.
TÂM để RỖNG-không , thường NHẪN-NHỤC.
Bửa hằng thong-thả phải tiêu ma.
Nếu người TRI-KỶ nên an-phận.
Dẫu kẻ oan-gia vẫn CỘNG-HÒA.
Miễn tấm lòng nầy không quái-ngại.
Mười phương chứng đặng LỤC-BA-LA.
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
THUYẾT- MINH ỨNG-HIỆN , chính một thuyết-minh đầy-đủ Công-Đức Như-Lai , có ỨNG liền HIỆN thân BỒ-TÁT-PHẬT hay Bồ-Tát Ứng-Thân liền sau khi đặng lời Khai-Thị của Bậc Chánh-Giác.
Sự Ứng-Hiện là sự chờ Khai-Thị Chứng-Minh , ngoài ra không thể dùng vọng-tưởng , thường-tưởng nào mà đặng sự Ứng-Hiện.
Khi từ nơi tư-thế Chúng-Sanh-Giới phải sống bị sống không ngoài Chúng-Sanh-Tánh. Chúng-Sanh-Tánh chia ra Bá-Thiên vạn loại, từ nơi Thượng-Sanh đến Hạ Giới . Từ chốn Tiên-Thần Thánh-Hóa cho đến Nhân-Loài trong sáu đường đến Địa-Ngục.
Mỗi Cõi , mỗi Cảnh- Giới thảy đều Bị-Trị trong chế-thế qui-định . Do đó nên mỗi nơi đều có tập-quán , thường-quán, tập-nhiễm , thường-nhiễm , không ngoài THANH-THÔ TẾ-NHỊ mà bị Bổ -Sung Sanh-Tử trong Ba-Cõi Sáu- Đường , chỉ vì chúng-sanh-tánh Ứng-Hiện có khả-năng mức-độ như thế mà thôi.
Lúc Chúng-Sanh-Giới ấy , Phát Bồ-Đề-Tâm tu-tập, phải dứt-khoát giải-TÂM bị-trị nơi Chúng-Sanh-Tánh ấy mà nung-đúc, cải-hóa Chúng-Sanh-Tánh trở thành Tiên-Thần Thánh-Hóa-Tánh, để thừa- hưởng Ứng-Hiện nơi Tiên-Thần Thánh-Hóa. Sau khi đầy-đủ Công- Đức trọng-lượng chất-lượng , phẩm-lượng , gặp đặng Vị Đại-Tiên, Đại-Thiên , Đại Thần-Thánh-Hóa khai-thị hợp hóa liền Ứng-Hiện Tiên-Thần Thánh-Hóa . Bằng gặp đặng Phật thời vẫn chưa ứng-hiện đặng Bồ-Tát Hóa-Thân, vì sao? – Vì đang tập-nhiễm SẮC-THÂN nên phải trải qua tu-hành BÁT-NHÃ-TRÍ cốt thâm-nhập Pháp-Giới Thọ- Ngã Bị-Giác, do đó nên chưa Ứng-Hiện.
Bằng có Bậc có sẵn Căn-Tánh của Thiên hoặc Tiên-Thần Thánh-Hóa, bị-sanh Ứng-Hiện trong Cõi Đời, phải chịu sống theo Sáu-Đường như tất cả Nhân-Loài . Lúc gặp đặng Phật. Những bậc nầy tuy thân-mạng Con-Người , dù cho giàu-sang hay cực-khổ vẫn có tư-cách đạo mạo khang-trang , cử-chỉ thanh-thoát đẹp.
Nhưng có một nỗi, nặng về Hình-Sắc quan-niệm nơi Thân-Phật Thị- Hiện, hơn là tu-hành tự-tánh , chiêm ngưỡng lễ-bái hơn là lãnh Giáo của Chư-Tăng . Do nơi Thiên-Pháp tập-nhiễm thọ-chấp, tu như thế khó thành-tựu chứng-tri Bồ-Tát-Hạnh, được gọi là Nhị-Thừa Tu- Chứng.
Lại có Bậc, có sẵn Căn -Tánh của Thiên hoặc Tiên-Thần Thánh-Hóa, bị sanh ứng-hiện giữa Cõi-Đời như trên đã nói: Nếu gặp đặng Phật. Nhãn-Quang phong phú, nhìn đặng THỂ-CÁCH bình-dị của Như-Lai Thị-Hiện, sinh lòng ái-kính . Khi nghe đặng lời Khai-Thị , toàn thân Long-Mạch của bậc ấy viên-thông, tất cả Sơn-Hà Đại-Địa rung chuyển, liền lễ-bái thọ-trì xưng-tán, chưa bao giờ nghe, nay đặng nghe lời khai-thị, chưa bao giờ thấy nay đặng thấy CHƠN-TƯỚNG Trực -Giác, liền đặng Giải-Tâm Sắc-Tướng về NHƯ-TƯỚNG, tu hạnh Bồ- Tát-Nguyện. Những bậc nầy thường đứng về NHÂN-THIÊN-Hạnh trong hàng Trưởng-Giả-Chúng tu-tập.
Đối với PHẬT Thị-Hiện tùy nơi Thời-Căn của chúng-sanh mà Thị-Hiện. Khi gặp Thời-Căn nơi Chúng-Sanh đầy-đủ sung-túc lại bị chìm- đắm nơi Tướng Dục Hư Vọng, tưởng-vọng xa-hoa Lọng-Phướng. PHẬT bảo phải Xuất-Gia tu-tập Thiên-Thừa-Hạnh, cốt xuất-ly Danh Giả Tướng, áp dụng bằng CHỮ KHÔNG, lối nầy điều-ngự Dục Vọng, khắc-phục Tham-Vọng trở về NHƯ-NHIÊN TRỰC-GIÁC . Nếu dụng lối CÓ chẳng xuất-ly, không dứt Ái thời tất cả chẳng lãnh-hội đặng phải, lâm nơi Dục-Tướng Danh-Giả khó mà Tri-Kiến Giải-Thoát.
Đến Thời-Căn Chúng-Sanh đói khổ, dùng nơi năng-lực khai-thác mưu- sanh trong hiện-vật để sinh-sống , ngành trí-hóa văn-minh thực- chất. Chẳng thể nào dụng lối KHÔNG hướng-dẫn trên con đường TRI- KIẾN , nên chi Phật THỊ-HIỆN phải ĐỒNG-HÓA chúng-sanh dụng LỐI CÓ để Hóa-Độ. Khi đã dụng lối Có thì có trăm phương vạn lối diễn-hành . Tâm không nhiễm-trước , GIÁC hoàn THỂ- CHÂN.
PHẬT ra đời tùy Căn-Cơ , Căn-Tánh khai-thị lần đưa cho chúng-sanh- tánh biết Hướng-Thượng mở-mang Tâm-Thức trở thành Bồ-Tát-Tánh. Bồ-Tát-Tánh có đồng Thể-Chất bao-dung giúp-đỡ từng lớp chúng- sanh không quái-ngại , lấy sự tiến-hóa nơi chúng-sanh-giới về với chính bản-thân Bồ-Tát an-vui , Phật-Tánh cũng như thế . Phật ra đời không thể nào khai-thác CĂN-NGHIỆP của chúng-sanh , mỗi một khi chúng-sanh Thọ-Giới bị thọ-chấp căn-nghiệp kiến-tạo thành-hình Nhị- Thừa Tu-Chứng hoặc giả thọ căn-nghiệp Tiên-Thần Thánh Hóa, hay Ngạ-Quỷ Súc-Sanh đến Địa-Ngục , PHẬT đành phải chịu . Chỉ có những bậc tự nơi bản-thân của mình, NHẤT-NIỆM HÓA-GIẢI lấy mình thoát khỏi căn-nghiệp của mình mà thôi , đó là lời Chân-Thật nên có câu : PHẬT BẤT HÓA-ĐỘ VÔ-DUYÊN. BẤT HÓA-ĐỘ ĐỊNH-NGHIỆP .
Khi gặp PHẬT chỉ-đạo , thì cuộc hướng-dẫn rất toàn-thiện khéo-léo , tùy Thời-Căn , tùy Căn-Cơ , lại vẫn tùy-thuộc nơi Căn -Tánh Bồ-Tát mà chỉ-dạy , tuy nhiên nơi hai lối DỤNG : KHÔNG cùng CÓ , nhưng sự TẬN-ĐỘ như nhau . Chẳng phải vì KHÔNG mà quán hư không chẳng nói-năng bày-biện . Chẳng phải vì CÓ mà bắt buộc Bồ-Tát phải bị đóng trong khuôn Pháp- Giới để Tỏ-Ngộ đâu.
Sự DIỆU-DỤNG không ngoài : HỶ-NỘ ÁI-Ố đến THƯỜNG-LẠC-NGÃ-TỊNH . Chư Bồ-Tát đang tu hành chưa tận-giác , chưa tỏ thông căn tánh tu nơi bị biết thường hay Thọ Căn tạo nghiệp, chấp nhận lấy Hỷ thọ ngã chứng từ nơi tu chứng, hay nhận NỘ để đánh đuổi Ma-Nghiệp giải-nghiệp cho chúng-sanh hoặc dùng ÁI để thương-mến ái-nịch chúng-sanh thoát khỏi nơi sanh-tử hay dùng Ố để làm nhục-thể cứu-độ chúng-sanh . Từ nơi Thường-Lạc Ngã-Tịnh, cho đến Hỷ-Nộ-Ái-Ố , nếu lấy đó làm nơi trụ-xứ thảy đều vương nơi Căn- Nghiệp , đối với Phật vẫn không giải nổi.
HỶ-NỘ-ÁI-Ố , THƯỜNG-LẠC-NGÃ-TỊNH là Pháp Môn Diệu-Dụng của Phật , tùy Căn-Tánh Phật phải Thị-Hiện để hướng-dẫn bồ- tát thọ-chủng-tánh , chớ chẳng phải nơi trụ-xứ chứng-tri của Phật.
– Có bậc tu-hành vì bối-cảnh chưa qua nổi pháp giới , tâm-thức buồn- chán . Phật liền dùng HỶ diễn nói Quốc-Độ Tịnh-Độ , sự trang- nghiêm của Chư Phật làm cho Tâm-Ý hóa-giải lướt qua Pháp-Giới an- lành.
– Có bậc vì dễ-ngươi gần Phật, thường phạm-giới sát-sanh hay gây-gỗ Tứ-Chúng . Phật phải dùng NỘ để nói lên, làm cho bậc kia hồi-hướng tu-hành.
– Có Bậc Tâm-Chí lững-lơ . Phật phải dùng ÁI dỗ-dành , làm nơi nương-tựa lần tiến trên bước đường tu-tập .
– Lại có bậc bảo-tồn quả-vị , chẳng dám vào nơi Bất-Tịnh cứu-độ . Phật liền Hiện-Thể Ố để cho bậc kia noi gương trên bước đường HẠNH-NGUYỆN hoàn-mỹ.
– Có bậc điên-đảo vọng-khởi bất-an . Phật hướng dẫn THƯỜNG-LẠC NGÃ-TỊNH cốt cho bậc kia tỏ-ngộ nơi thường-chân liễu-ngộ. Chớ nào phải nơi trụ-xứ mà các bậc tu-hành phải mang vào nơi Trụ- Chứng?
Nơi ỨNG-HIỆN của Chư Bồ-Tát , PHẬT rất tường tận vi-tế tỏ-tường từ lúc khởi duyên. Còn Chư Bồ-Tát đang tu-hành chưa bao giờ nhận chân-nguyên nơi phát-hiện . Bằng nhận được chỉ trừ ra thọ-ngã mới nhận mà thôi. Nếu thọ-ngã Phật xem như đã thọ-nghiệp không thể nào đưa nổi hoặc cứu-độ đặng.
Đối với tất cả chúng-sanh-giới thảy đều có Thiện-Căn Vô-Thượng.Nhưng gặp phải những bậc gieo-Duyên chưa toàn-thiện. Bậc gieo-duyên chưa toàn thiện chưa phải là bậc không có Tâm-Chí cứu- độ đâu , chỉ vì những bậc ấy tu-hành chưa rốt-ráo, bị nơi thọ-ngã bất ngờ ngỡ mình thành Phật , do đó nên chi hiện nay có hằng-hà sa-số bậc Thầy chỉ-đạo sai-biệt với hoàn-chân của chư Phật , cho nên mới có bậc gặp Phật chỉ-đạo liền thành Phật. Gặp Bồ-Tát hướng-dẫn đặng thành Bồ-Tát, gặp Tiên-Thần-Thánh-Hóa tu-luyện đặng thành Tiên- Thần-Thánh-Hóa . Bằng gặp Phàm-Phu hướng-dẫn phải chịu thờ-cúng Yêu-Ma Cô-Cậu , đó là một lẽ thường.
Đứng về phục-diện nơi Phật, nhìn đến Chúng-Sanh trong Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới Rồng-Người. Từ thế-gian đến Xuất Thế-Gian, thảy đều là:BỒ-TÁT TỰ-NGUYỆN THỌ- GIỚI cúng-dường NHƯ-LAI lớp lớp HÀNH-NGUYỆN mũ-áo cân-đai cho đến kẻ ăn xin tơi-tả đầy-đủ hình-thức sắc-thái nơi thế-gian cùng xuất thế-gian , nên gọi là BỒ-TÁT VẠN-HẠNH THỌ-GIỚI.
Khi Bồ-Tát Tự-Nguyện cúng-dường Như-Lai Phật, Chư Bồ -Tát đồng-hiện đồng-hóa , trở thành MẬT-THỂ và NHƯ-TƯỚNG .Vì như thế nên chi bồ-tát mới hóa-thân SƠN-HÀ ĐẠI-ĐỊA chủ-yếu mát-mẻ Như-Lai , ỨNG- CÚNG CHÁNH-BIẾN , có từng lớp-lớp, từ cây-cỏ đến suối-đèo, từ Âm thực đến hoa-quả . Thế-Giới gọi là THIÊN-TẠO.
Đồng-thời Chư Bồ-Tát hiện hàng-hàng lớp-lớp Pháp-Giới để Thọ-Giới đầy-đủ trang-nghiêm cung-thỉnh Như-Lai-Phật, cúng-dường Ngôi Tam-Bảo tất cả các Bảo-Châu Ngọc-Bích, Xa-Cừ, Mã-Não , San- Hô, Hổ-Phách cùng Lọng-Phướng xe-giá, kèn trống tiễn đưa, đón rước Chư-PHẬT mười phương tề-tựu đàm-luận cùng thảo-luận, Bồ-Tát chủ-yếu chứng-tri Công-Đức , Bồ-Tát Tự-Nguyện , an trú Pháp-Giới cúng-dường , từ đời-đời kiếp-kiếp . Có như thế , Hành như thế nên chi Chư Bồ-Tát thảy đều là CÁI-DỤNG của Như-Lai.
Khi bấy giờ Bồ-Tát , mong TRI-KIẾN-PHẬT thì làm như thế nào để tri-kiến ? Bồ-Tát phải GIẢI-GIỚI . Bồ Tát Giải-Giới , Bồ-Tát phải TẬN-ĐỘ chúng-sanh-giới , do đó nên chi Bồ-Tát nhìn thấy tất cả thảy đều là VẠN-PHÁP ràng buộc chúng-sanh chịu GIỚI cực-khổ , Bồ-Tát nguyện đem thân-mạng trí-tuệ tay-chơn đầu-cổ bố-thí chúng-sanh thoát khỏi Pháp-Giới , làm nơi an-lành của BỒ-TÁT-NGUYỆN .
Bồ-Tát nguyện ra vào Địa-Ngục-Giới , lãnh lấy sự khổ-đau ngục-hình, hoặc giả hứng chịu kẻ kia chửi mắng hành-hạ thân-mạng , để cho chúng-sanh hóa-giải nghiệp-lậu đặng thoát khỏi ngục-hình. NGUYỆN như thế LÀM như vậy, Bồ-Tát làm nơi an-lành của Bồ-Tát nguyện.
Lúc Bồ-Tát HÀNH-NGUYỆN đồng với HẠNH-NGUYỆN Bồ-Tát không bao giờ nhàm chán , Bồ-Tát say-sưa nơi nguyện , vì sao? – Vì BẢN-NĂNG thực-thể mong đợi TRI KIẾN , do đó nên chi Bồ-Tát lìa tất cả mà không nhiễm Ái , cúng tất cả mà chẳng nhiễm Chấp , đưa tất cả mà chẳng nhiễm trần cấu.
Bồ-Tát Hành-Nguyện , Hạnh-Nguyện như thế , vươn mình đánh đổi như vậy , Bồ-Tát sở-đắc Pháp-Giới tận biết đặng Pháp-Giới kết-nạp trở thành vợ-con, chồng-vợ, trai-gái, nam-nữ, phải chịu nơi PHÁP-GIỚI trăm phương vạn cảnh , sướng-khổ do nơi lầm-lẫn chìm đắm nặng-nhẹ mà thọ-nghiệp , thọ-chủng , thọ-ái , thọ-sanh , thọ-tử liền Sở- chứng VÔ-SANH .
Khi bấy giờ Bồ-Tát lấy đạo-tràng làm thú-vui tạm-trú , lấy mức-tiến làm món ăn nơi ở hàng-ngày , lấy bao-dung rộng-rãi xây-dựng Tịnh- Độ của Bồ-Tát . Bồ-Tát HÀNH-THÂM PHÁP-GIỚI nhiếp-độ hóa- giải Pháp-Giới . Từ nơi Vinh , Bồ-Tát nhìn nhận thoảng qua , không lấy đó làm nơi trụ-xứ . Từ chỗ Nhục , Bồ-Tát vẫn tái-tê nhưng chẳng lấy đó oán-hờn , Bồ-Tát NHẤT-TÂM ĐẢNH-LỄ , TỰ-NGUYỆN tất cả THÂN-MẠNG đều CÚNG-DƯỜNG NHƯ-LAI , chẳng còn chi nơi Bồ-Tát , đặng PHÁP-ĐẢNH NHƯ-LAI THỌ-KÝ . Bồ-Tát liền sở- đắc TẬN-GIÁC tất cả pháp-giới chưa phải của Bồ-Tát liền đặng GIẢI-GIỚI, đặng Chư Phật thọ-ký lãnh lấy ỨNG-HIỆN THÂN BỒ- TÁT.
Bồ-Tát trải qua vạn HẠNH , vạn NGUYỆN , Bồ Tát mới nhìn-nhận : tất cả Chúng-Sanh-Giới , từ hàng Nhị-Thừa tu-chứng cho đến Tiên-Thần Thánh-Hóa chỉ hơn nhau nơi THANH và THÔ , chớ nghiệp-chủng nơi chúng-sanh-tánh còn nguyên-vẹn .
Do đó nên nào đặng hay, nào có biết, nên chi lấy GIỚI tạo ra GIỚI mà an-hưởng . Khi Pháp Giới ứng-hiện trong Pháp-Giới , chúng-sanh-giới nhìn thấy đều là HOÀN-CẢNH rang-buộc , Vợ-Con Trai-Gái đều nằm nơi Ái-Nịch , Ái-Dục hình-thành . Lúc Xuất-Gia tu-tập phải ly- thân cắt Ái , tránh nơi Ô-trược , Phiền-Não-Trược đến chốn an-nhàn Pháp-Giới mà an-trú xứ-sở , trở thành Nhị-Thừa Tu-Chứng .
Còn những bậc chưa tu hay đã tu , hoặc đã đặng tu vẫn NHẤT-TÂM-CHÚNG -SANH-TÁNH cầu-vái an lành , hoàn-cảnh may-mắn , cầu lấy Phước-Báo Nhân-Thiên , để cho đặng sống an- hưởng nơi Chúng-Sanh-Giới . Có như thế , làm như vậy , liền có hàng- hàng lớp-lớp phải Thọ Giới đời đời Tri-Kiến nơi chiêm-ngưỡng lễ-bái Phật-Đường , Phật thảy đều hiện nơi Pháp-Giới của Chúng-Sanh-Giới vậy .
NAM MÔ ĐẠI-LỰC NHƯ-LAI TÔN-PHẬT
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ TÁM:
PHẬT-NGỮ-LUẬN chủ-yếu hướng-dẫn cho các bậc tu-hành, tận dùng Giác-Tánh đúng với lời PHẬT thuyết kết-nạp Kinh-Điển.
Nơi Giác-Tánh sẵn có nơi con người cùng các cấp bậc ưa-thích Như- Nhiên Tánh , đương-nhiên Tánh , TỰ-BIẾT hơn là học đòi đặng biết, tu đọc tụng tán Kinh Điển . Đối với Nhân-Sanh , từ thưở nghìn xưa đang sống thực-tại hay hoài-vọng, niệm-tưởng xa-xuôi hiếu-kỳ trở nên vọng sống. Họ chỉ ước-ao hơn là thực-tánh xấu xa cải-hóa trở nên bậc thanh-cao hướng-thượng rộng-rãi bao-dung thì chừng ấy, đưa tập kinh- điển ngang tầm đôi mắt liền thông-cảm tỏ-tường cần chi phải nghiên-cứu?
Phật-Ngữ kinh-điển giao-tế tương-song với bậc biết tự-hối sửa mình, hơn là bậc chiêm-ngưỡng thờ lạy trăm nghìn thói-tục xấu-xa chưa trừ giảm, do đó Chư Tổ mới thực-chứng lãnh-hội đặng lời PHẬT-NGỮ mà nêu cao vấn-đề MINH-TÂM KIẾN-TÁNH.
Khi bậc tu-hành vốn tùy-thuộc nơi quan niệm của mình mà chứng-tri Đạo-Pháp. Có bậc tự cho Đạo-Phật Tu-Phật khó mà Tri- Kiến, khó mà giải-thoát, chỉ cầu mong Phật độ cứu khổ, thì rất ít ưa-thích xem kinh Đại-Thừa, chỉ tu nơi đọc-tụng cầu-vái, thời lời Phật-Ngữ kia chỉ tiến- bộ có mỗi một phần nhỏ hẹp mà thôi. Bằng có bậc Tự-Tín năng-lực nơi mình đọc tụng, nhận xét lời dạy kinh-điển đúng với tinh-thần lời Kinh-điển PHẬT thuyết, kết-quả sự tu-tập trong thời gian mức độ, Vì sao? Vì vọng-khởi kỳ-vọng nơi thân-tâm chưa sạch thành-thử mới có mức-độ. Bằng giải nghiệp-thức vọng-nghiệp thì cũng có thể Tri-Kiến- Phật.
Do sự vọng-tưởng, niệm-tưởng nơi con người mới bị sai-lạc tu Phật mà thành Tiên-Thần Thánh-Hóa , mới phát-hiện Tam-Thiên Đại- Thiên Thế-Giới , mới có thần-lớn thần-nhỏ cùng các loại Ma-Thần Quỷ-dữ. Nếu các bậc tu lần hóa-giải các nghiệp ngăn-ngại tức phá đặng Vô-Minh Ngăn-Chấp thì làm chi hiện-sanh trong các Cõi, vẫn Tri-Kiến Giải-Thoát hiện-tại.
Bước đường tu-Phật chỉ sợ chưa biết đặng tu , chớ không sợ không Giải-Thoát. Đối với PHẬT-NGỮ chỉ sợ chưa biết xem , chớ đừng sợ không hiểu biết . Ban đầu luôn-luôn sai-lệch , đến trình-độ Chơn-Tánh thực-thể nơi thân-tâm , chính tự mình cải-hóa liền đúng chớ chẳng sai. Bằng đứng yên gìn-giữ , hoài-vọng mong-cầu, thì nó phải sai , chưa đúng .
Những Bậc Đa-Văn Trí-Thức tu-hành rất cần có CÔNG-NĂNG Thực-Hành hơn là xem kinh tu-tập , còn bậc ít học thời phải xem Kinh để tu-hành hơn là Công-Năng thực-tiễn . Vì sao? – Vì Đa-Văn Trí-Thức tập-nhiễm nơi văn-tự , khó trở về với Tánh Như-Nhiên , đương- nhiên tự Biết , nên cần phải thực-hành trước mới tự-biết sau . Còn bậc thiếu học phải xem Kinh-Điển để biết mà tu-hành , đó chính là hai điều nên lưu-ý.
Đối với thời Lạc-Pháp , vì thiếu Bậc Thông-Đạt chủ-đề hướng-dẫn, phương-pháp NHƯ-NHIÊN TỎ-TÁNH , hoặc xem Kinh-Điển nơi hệ- thống Kim-Chỉ-Nam , cốt hoá-giải sự mê-lầm , về với Trực-Giác . Nói đến sự Tin-Phật xem Kinh-Điển nhiều hơn thời Đức-Phật còn Thị- Hiện. Vì cuộc sống nhân-sinh chật-vật , cho nên Nhân-Loài mơ-ước với lối sống thanh-tao nhàn-hạ tâm-hồn đỡ khổ mà phải thích tu.
Khi những bậc Tu mở quyển Kinh , cứ theo Trình độ mà nhận-định lối tu lời Kinh giảng-giải , hoặc đã từng xem nhiều quyển Kinh , thời nó hiểu với tầm-mức tiến-triển trình-độ lần cao với bậc đã SAY-KINH để mà nhận-định TỎ-KINH , chớ chưa RÕ-KINH hơn là bậc đang thực- hành tu-sửa . Những bậc xem Kinh chẳng Công-phu thực-hành tạo lấy Công-Đức , hóa-giải Vô-Minh thì dù cho có xem rất nhiều Kinh-Điển chăng vẫn là kẻ chưa bao giờ xem Kinh .
Có bậc Tín-Tâm tin Phật Y-Kinh thực-hành thì nơi thực-hành kia vẫn theo tâm-chí tưởng-vọng thực-hành nơi hoài-vọng , tu nó vẫn kết-quả Tâm-Chí chớ nào kết-quả với Trực-Giác đương nhiên ? Do nơi lầm sai lời Phật-Ngữ mà sự Làm cùng sự Đến khó kết-quả trên con đường tu-tập vậy.
Kinh-pháp PHẬT nói : NIỆM-PHẬT liền thành – PHẬT hoặc câu: TA là PHẬT đã THÀNH , các ÔNG là PHẬT SẼ THÀNH , hay là : Từ đời này đến thời sau , PHẬT THỊ- HIỆN , Chư Bồ-Tát ỨNG-THÂN , nếu Chúng-Sanh gặp đặng PHẬT cùng BỒ-TÁT thì kẻ ĐUI đặng THẤY , kẻ ĐIẾC được NGHE , người CÂM biết NÓI , kẻ TÊ-LIỆT đặng cử-động ĐI-ĐỨNG …
KINH-PHÁP nói rất rõ-ràng , phải TU-HÀNH mới ĐẾN , phải trải- qua đủ MÔN mà ĐẶNG , chớ nào phải hoài-mong vọng-tưởng nó đến liền đặng đâu ? Cho đến nổi đương thời ĐỨC-BỔN-SƯ còn tại-thế , Ngài nói rõ , chỉ thẳng ở chỗ tê-liệt ngồi yên mong-đợi kết-quả , NGÀI nói : Nó ưa thích nghe những pháp-môn nào Không làm mà đến , không tu mà đặng , còn SỰ làm mà đến chỗ TU mà đặng thời nó lười trễ biếng-nhác , làm thế nào nó hoàn giác ? Nếu nó thực-hành tu- tập BI-CHÍ-DŨNG , GIỚI-ĐỊNH-TUỆ cùng LỤC-BA-LA-MẬT-ĐA, nó không cầu đến , vẫn đến với nó.
THẾ NÀO KHÔNG CẦU ĐẾN VẪN ĐẾN ?
Khi Bậc không cầu đến vẫn đến , mới nhận thấy lời Phật-Ngữ tuyệt- tác , không biết lấy chi tán-thán lòng vị-tha bác-ái nơi NGÀI đã từng cứu-độ chúng-sanh đủ mọi mặt , từ ngôn-ngữ đến hành-văn , từ dặn- dò đến Ấn Chỉ quyết-định , đặt tất cả nền-tảng để cho chúng-sanh vững-tâm quyết-định tu đến kết-quả TRI-KIẾN GIẢI THOÁT , nhưng nào có hiểu thấu lời Phật-Ngữ . Đến sau lần-lượt Chư Tổ bổ sung Ấn Chỉ, banh xẻ vạch rõ lời Kinh-Pháp, cốt cho tất cả đặng hiểu đến thâm- nhập Giải-Thoát . Lời bổ-sung ấn-chỉ tuy của Chư Tổ, Chư Bồ- Tát ứng-hiện giải ra thảy đều Tự-Tánh Giác-Ngộ mà nói. Nơi TỰ-GIÁC nói thảy đều là lời PHẬT- NGỮ nói, bằng chẳng dùng lời Tự Giác nói tức lời Ma-Thuyết Tưởng-Vọng nói. Đoạn nầy rất cần cho bậc Tu-Hành lưu-ý.
Sự bảo-trì Kinh-Pháp , nơi Hộ-Pháp lời Ấn-Chỉ Phật-Ngôn . Khi Ấn- Chỉ cho chúng-sanh NIỆM-PHẬT liền THÀNH-PHẬT , hay các ông là PHẬT SẼ THÀNH , hoặc kẻ Đui Điếc Ngọng-Câm Tê-Liệt gặp đặng Phật cùng Bồ-Tát liền chứng-minh tu-hành đặng TRI-KIẾN là THẤY-BIẾT, giải-thoát khỏi bệnh mê-lầm Đui-Điếc-Ngọng-Câm chưa nói ra lời Trực-Giác , thân-mạng tê-liệt nằm yên, nay thoát khỏi con đường Sanh-Tử, có phải chăng quan-niệm vọng-tưởng nhân-sanh tứ-loài bất-đồng nơi Phật-Ngữ chăng?
Lại nữa , lúc thoát khỏi con đường Sanh-Tử-Bệnh-Lão-Khổ mới thành Phật , chớ cứ tưởng-vọng ngồi yên , đứng yên , nằm yên , thời làm như thế nào thành Phật, dù có thành Phật chăng vẫn ở nơi thành Phật Tưởng-Niệm.
Còn về vấn-đề, từ chúng-sanh tưởng-vọng , hoài mong điên-đảo lầm- mê , TƯỞNG-NIỆM phải tu qua khỏi BỐN TƯỚNG mới GIẢI-THOÁT thành PHẬT , bằng tu-hành chưa qua Bốn-Tướng Giải-Thoát chưa bao giờ thành.
THẾ NÀO LÀ BỐN TƯỚNG GIẢI-THOÁT ?
Pháp-Môn NIỆM-PHẬT Tịnh-Độ Tây-Phương Cực Lạc Thế-Giới chính là một Pháp-Môn Đức A-DI-ĐÀ tuyệt tác cứu-độ NHẤT-TÔN Tối-Thượng đối với lòng thành-kính tuyệt-đối mà thành trong cơ-cấu Niệm-Tưởng.
Sau khi những bậc tu-hành pháp-môn TỊNH-ĐỘ thảy đều kết-quả về Tây-Phương Cực-Lạc . Có hằng-hà sa-số chúng-sanh đặng cứu-độ, có hàng lớp-lớp chúng-sanh được về Tây-Phương TẬN-ĐỘ , có hàng tuần-tuần chúng-sanh về Thế-Giới Tây-Phương đặng VÃNG-ĐỘ . Đó chính là một sự chân-thật bất-khả tư-nghị Công-Đức , khó giải nói , nay thành-thật chỉ thẳng nơi Giáo-Ngôn Trực-Chỉ để các bậc tu-hành phải nương nơi công-đức cứu-độ mà thực-hành , phụng-chỉ NIỆM- PHẬT.
Tịnh-Độ Tây-Phương Cực-Lạc vẫn có Bốn-Tướng Giải-Thoát , lúc cứu-độ những vị đặng vào Tịnh-Độ an-dưỡng trong hoa Sen. Hoa-Sen có Bốn màu sắc : Thanh-Sắc thì THANH-QUANG , Huỳnh-Sắc lại HUỲNH-QUANG , Xích-Sắc thì XÍCH-QUANG , Bạch-Sắc đặng BẠCH-QUANG , màu-sắc tùy thuận nơi Công-Quả tu-tập ở các mọi nơi , Cảnh-Giới cùng Thế-Giới mà lãnh lấy an-dưỡng trong Hoa-Sen tu-hành.
Trong Hoa-Sen là một thế-giới nơi Tây-Phương Tịnh-Độ , vị an- dưỡng ở trong Hoa-Sen là một thế-giới rộng lớn tu-hành kiến-tạo Công-Đức Quả-Vị , căn-cứ nơi tu-chứng màu-sắc hoa-sen ứng-hiện Quang-Sắc , Quang-Sắc lần trổ nơi Công-Đức Quả-Vị bậc đang tu- hành trong thế-giới hoa Sen.
Ban đầu bậc tu-hành Niệm-Phật đặng Chánh-Báo Tây-Phương Cực- Lạc tạm-trú bước vào Hoa-Sen Thanh-Sắc, liền phát hiện Thanh- Quang , tu như thế trong thời gian vô-hạn định. Thế-giới trong hoa-Sen Thanh-Cảnh , Thanh-Quang Im-Diệu , tiếng nhạc-phách thanh-tao lời niệm nơi Sơn-Ca Khổng-Tước thảy đều có giọng thanh-tao khỏe trí. Hằng ngày vẫn hái hoa đơm hoa cúng-dường lễ-bái A-DI-ĐÀ- PHẬT chiêm-ngưỡng thân-tâm khỏe-khoắn , chẳng có sát-sanh , thương-ghét dua-vạy , chen lấn , tất cả an lành đúng với tinh-thần Tịnh-Độ . Nhưng chưa bao giờ tận thấy, tận gặp Đức A-Di-Đà-Phật . Vì sao ? -Vì đang an-dưỡng trong hoa Sen Tịnh-Độ.
Đến chừng Hoa-Thanh-Quang di-chuyển trở màu , đúng với CÔNG-ĐỨC CÔNG-NĂNG Tu-Trì Quả-vị , hoa nọ trổ HUỲNH-QUANG , Sen kia đặng màu Vàng thì tất cả trong thế-giới đồng ứng-hiện : Kim- Cương , Bích-Ngọc , Cát-Vàng , Lọng-phướng , thảy thảy trân-châu phượng-yến cùng các loại chim Oanh-Vũ , Khổng-Tước giao đuôi nhảy múa trở thành Niệm-Phật , Niệm-Pháp , Niệm Chư-Tăng , hương thơm tỏa khắp trong thế-giới , Chư Bồ-Tát hiện thân , xưng tán Công- Đức vô-lượng của Phật.
Lúc bấy giờ bậc Chánh-Báo chiêm-ngưỡng lễ-bái A-Di-Đà-Phật , bằng Nhất-Tâm Niệm-Phật A-Di-Đà vẫn theo thường lệ như trên chứ chưa gặp đặng A-Di-Đà-Phật , Vẫn chưa biết chính bản-thân mình Chánh-Báo trong Tịnh-Độ Tây Phương Cực-Lạc Thế-Giới.
Lạ thay ! Huyền-Diệu thay ! Thế-Giới Huỳnh-Quang vô cùng cao-đẹp, vô cùng hương sắc, vô cùng toàn mỹ. Bậc Chánh-Báo đang tu, đang cầu Chư-Phật thọ-ký chứng-minh đến , chưa thể nào có thời-gian hạn định mới thành Phật . Đến thời nào Bậc Chánh-Báo tu-trì đầy-đủ NIỆM-PHẬT – NIỆM-PHÁP – NIỆM-TĂNG thì Huỳnh-Quang di- chuyển , thế vì XÍCH-QUANG ứng-hiện .
Lúc đã đến thời BA Ứng-Hiện , chính bậc tu-trì đã vững-tâm Niệm- Phật . Thế-Giới hoa Sen không chi thay đổi , chỉ có Xích-Quang phổ chiếu trong Xích-Hoa . Bậc nầy nhìn thấy tất cả thảy đều ứng-hiện màu Xích-Quang . Bắt đầu Tĩnh-Tọa chiêm-ngưỡng lễ-bái không cầu vái van xin , thề nguyện Niệm trong thời-gian, sắp đầy đủ Bốn- Tướng , đương-nhiên Trực-Chỉ THÔNG-ĐẠT, chỉ còn TẬN-THÀNH , liền Xích-Hoa-Quang trở thành BẠCH-HOA-QUANG , bắt đầu Thị-Hiện . Trong thời giao-tế Thị-Hiện Bạch-Quang thì Chư-Phật NGŨ Phương , Từ nơi Đông Phương: A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật cùng Diệu Âm Phật. Nam Phương, Tây Phương, Bắc Phương và Hạ Phương, mỗi phương thảy đều có hằng-hà sa-số Chư Phật tán-thán, khó nghĩ bàn Công-Đức Sở- Hộ Chánh-Niệm.
Nơi Hoa-Bạch-Quang lần lần chớm nở, mỗi một lần chớm như thế đối với Nhân-Thế cũng phải MỘT TRĂM-NĂM , nhưng ở Tây-Phương Cực-Lạc Thế-Giới chưa mấy hồi đã nở. Vị Bồ-Tát-Phật từ nơi Bạch- Hoa bước ra, đảnh lễ Đức A-Di-Đà Phật thọ-ký. Phải chăng Bốn- Tướng Niệm-Tưởng Tịnh-Độ thành Phật. Còn nơi Niệm-Phật đặng thành Phật không Niệm-Tưởng đến Thật-Niệm nơi Chánh-Niệm đặng thành Phật như lời Phật-Ngữ ấn-chỉ.
THẾ NÀO LÀ NIỆM-PHẬT THÀNH-PHẬT ?
Bậc tu-hành Niệm-Phật đặng Thành Phật, vẫn tu nơi Bốn-Tướng Niệm-Phật liền thành Phật. Bằng chưa tu bốn-tướng không bao giờ thành Phật . Vì sao ? Vì ban đầu chúng-sanh tín-ngưỡng ưa thích niệm Phật mong cầu công-quả bổ-sung vào Tịnh-Độ hay có Tín-Tâm cầu quả Bồ-Đề Tri-Kiến Giải-Thoát . Gặp phải bậc tu-hành vái-niệm khuyến-bày pháp-môn Niệm-Phật , liền thực-hiện Niệm-Phật chớ chưa đặng Niệm-Phật , vẫn đương bị Niệm nơi CHÚNG-SANH NIỆM CHÚNG-SANH.
Hai nữa , quan-niệm Ái-Niệm , Tưởng-Niệm nên chi mãi còn Chúng- Sanh-Tánh niệm, vẫn nằm nơi Chúng-Sanh niệm Chúng-Sanh. Ba nữa cố-thủ lòng vị-kỷ , sự được mất hoài-mong Chư-Phật giúp-đỡ Niệm vẫn ở nơi Chúng-Sanh niệm Chúng-Sanh . Bốn nữa chủ-yếu Niệm- Phật nơi lòng thanh-thoát để dứt Phiền-Não-Niệm , Bối-Cảnh-Niệm , Vãng-Sanh-Niệm , đương-nhiên CHÚNG-SANH NIỆM CHÚNG-SANH , chưa phải Niệm Phật. Nơi NĂM chấp SỞ-CẦU nầy thuộc về NGŨ-ẤM , hoàn-toàn CHÚNG-SANH NIỆM CHÚNG-SANH.
Khi chúng-sanh đang niệm lấy chúng-sanh , tự lòng thành tín-ngưỡng phát-khởi TÍN-NGUYỆN , từ nơi THÂN-TÂM TỰ-NGUYỆN:
PHẬT-PHÁP : Vô-biên thề-nguyện HỌC
PHIỀN-NÃO : Vô-biên thề-nguyện ĐOẠN
CHÚNG-SANH : Vô-biên thề-nguyện ĐỘ
NHƯ-LAI : Vô-biên thề-nguyện SỰ
VÔ-THƯỢNG-ĐẴNG CHÁNH-GIÁC: Thề-nguyện THÀNH.
Nương theo lời nguyện trên , ưa thích lãnh hội thọ-pháp, chỉnh-trang tu-sửa , chỉnh-trang ĐẠO-HẠNH , lướt qua từng hoàn-cảnh bối-cảnh cốt dứt nơi Phiền-Não-Cảnh trải qua các Nghiệp-Thức , hóa-giải Chấp Nghi, đó chính là thề-nguyện ĐOẠN Phiền-Não . Từ nơi Chúng-Sanh-Tánh tận-độ chúng-sanh trở thành BỒ-TÁT-TÁNH . Nơi Bồ-Tát-Tánh chính là nơi áp-dụng hai chữ TU-HÀNH Hạnh-Nguyện NHƯ-LAI vô-biên thề-nguyện SỰ, có nghĩa là khắc-phục làm tất-cả cốt tỏ tất-cả , từ đạo-tràng đến thế-gian pháp thảy đều không e dè quái ngại. Tâm đương nhiên tự-tại mà thi-hành Hạnh-Nguyện, Đó chính là bậc tu NIỆM PHÁP.
Khi đã Sở-Đắc các Pháp , tỏ rõ đường đi lối về những bậc tu-chứng chấp pháp , khởi như thế nào , duyên-sanh ra sao, vọng như thế nào, thọ-chấp ra sao, liền Sở-Đắc CHÂN-KhôNG THỰC-CHỨNG.
Chân-Không Sở-Đắc , rất nhiều bậc Sở-Đắc Chân Không, từ Tiên- Thần Thánh-Hóa cho đến phàm-phu tự-mãn của chúng-sanh-tánh , công-dụng khả-năng học-vấn , xem-xét đọc-tụng Kim-Cang chấp-tự Sở-Đắc , kể không hết nỗi.
Chân-Không Thực-Chứng nó từ nơi Niệm-Pháp , Phật-Pháp Thọ-Ngã Giả-Tướng nơi Pháp , Đắc-Pháp KHÔNG-PHÁP THỌ-NGÃ GIẢ- TƯỚNG về với Giác-Tướng đặng Như-Tướng, trên con đường thực hành Bát-Nhã-Trí của Như-Tướng mà Thị-Chứng Chân-Không .
THẾ NÀO LÀ PHẬT-PHÁP GIẢ-TƯỚNG?
Từ nơi Chúng-Sanh Niệm đến Niệm-Pháp gọi là Pháp-Niệm, trực-biết Pháp đương nhiên Phật, Phật với Pháp không hai , chúng-sanh cùng Phật duy-nhất , Sở-Đắc Chân-Không , gọi là Không-Pháp Thọ- Giả-Tướng tu-hành đến Giác-Tướng . Như thế đặng gọi là THỊ- CHỨNG CHÂN-KHÔNG.
Bằng Chân-Không nơi Phật-Pháp đều Không , Chúng-Sanh và Phật chẳng chi để có. Nếu Suy-Tưởng Phật Pháp liền nó CÓ, cho nên thường gọi nó là : Nó cũng CÓ mà nó cũng KHÔNG , đó chính là vướng vào Phật-Pháp Giả-Tướng , đi vào nơi Dục-Kiến Phi-Đạo , chưa Suốt-Đạo , trở thành tăng-thượng sa-đọa , các bậc tu-hành Niệm-Pháp nên nhớ lấy.
Nơi Giác-Tướng không thể lấy hình-thành nào để chứng-tri đặng , những bậc thấu-đạt mới tường-tận Giác-Tướng mà thôi.
Nên Sở-Đắc Chân-Không truy-tầm kiến-tạo Công Năng Quả-Vị cốt Giác-Tỏ nơi Giác-Tướng , mới Phát Đại-Nguyện ra vào Pháp-Giới không vướng-mắc Pháp-Giới , hoặc vướng mắc ít nhiều tùy nơi Sở- Đắc Chân-Không.
Những Bậc Đa phần Chân-Không Thực-Chứng, đương-kim bước vào Sơ-Trụ Bồ-Tát , hoặc giả Bồ-Tát Hóa-Thân giả mê Sở-Đắc , không thể nào quyết-định , chỉ căn cứ nơi Hạnh-Nguyện mà thôi. Phải tu hành trải qua 55 thứ bậc Bồ Tát, từ Sơ-Trụ đến Đại Bồ-Tát.
Các bậc nầy đặng gọi là NIỆM-TĂNG thời-gian vô-hạn định, tùy nơi tận-độ , hành-độ, nhiếp-độ mà TẬN-THÀNH Chánh-Niệm Vô- Thượng Chánh-Giác thành PHẬT, gọi là BỐN-TƯỚNG Niệm-Phật Thành-Phật.
Từ Tây-Phương Cực-Lạc A-Di-Đà đến Đông-Độ Dược-Sư Trực-Giác đều là Pháp-Môn Tối-Thượng ; một bên vãng-sanh TẬN-ĐỘ , còn một bên Công-Năng Công-Đức-Phẩm TRỰC-GIÁC hiện tiền , thật Pháp-Môn đồng-đẳng tương-song thành Phật .
Công-Đức Chư-Phật , từ phàm-phu cho đến bậc chưa công-năng tận- giác , không thể nào hiểu , các hàng Nhị-Thừa chưa thấu , vì sao ? -Vì Bồ-Tát nói ra một câu , hàng Nhị-Thừa phải tĩnh-tọa tu-trì một kiếp chưa hiểu nổi , làm thế nào đo-lường Công-Đức-Phật ? Nên Kinh- Pháp mới đọc-tụng , Vô-Lượng Công-Đức Phật , từ hơi thở nơi Phật tỏa ra đều là Vi-Trần-Phật, Sát-Na-Phật , hằng-hà sa số Phật, bảo-trì Kim-Thân Phật, lời vàng lúc Phật Thị-Hiện, Bồ Tát thọ-trì chứng-tri lời Phật dạy.
Nơi Thị-Hiện thật bất-khả tư-nghị khi Phật thị-hiện . Mỗi một Đức Phật Thị-Hiện đương-kim tại-thế, an-tọa tĩnh-tọa Phật-Thể trước Tứ- Chúng chiêm-ngưỡng lễ-bái , đó chưa phải là Giác-Tướng , Còn nơi Phật-Pháp Thọ-Giả Ngã-Tướng để tận-độ Chúng-Sanh cùng các hàng Nhị-Thừa cho đến Bồ-Tát Sở-Đắc.
Nên Phật nói : TA không thể ban cho bất cứ một ai , tùy nghi bậc Chân-Thành thứ bậc thọ-lãnh.
Vì như thế Bồ-Tát tu-cầu lấy Giác-Tướng , lúc gần Phật cao-quý thịnh- trọng đạo-hạnh Nhân-Thiên , khi thưa-thỉnh trịch vai lễ-bái , đi vòng 7 vòng cung-lễ Vi-Trần Sát-Na-Phật , đồng thời thưa-thỉnh Phật Thị-Hiện Giác-Tướng theo tôn-kính , theo nghi-lễ, theo mức độ khả- năng TU-CHỨNG nơi vị Bồ-Tát thưa-thỉnh, liền chỉ-dạy lời Phật- Ngữ, từ nơi thân Phật thị-hiện. Mỗi một Đức-Phật Đương-Kim Phật có thể thị-hiện Bá-Thiên Vạn-Phật tùy nghi sở-cầu Bồ-Tát liền thị- hiện. Do đó mà bất-khả tư-nghị thuyết-giải , bất-khả Tư-Nghị nghĩ bàn Thị-Hiện.
Bậc Bồ-Tát tu-hành đặng Giác-Tướng rất nhẹ-cảm , thích nhìn ưa nhìn cử-chỉ diệu-dụng nơi Phật mà tu-chứng diện-mục Bổn-Lai , Thị-Hiện từng sát-na nơi Bá-Thiên vạn-Phật mà tán-thán , cung-kính tự khắc- phục lấy để Tu khỏi làm cho Kim-Thân-Phật tị-hạ . Do đó nên Công- Đức nơi Bồ-Tát mới tận-giác vào Chánh-Niệm .
Bằng kẻ thấp kém thường TỊ-HẠ thân Phật, vẫn gần Phật thừa-hưởng Phật-Pháp Giả-Tướng , chưa bao giờ thoát-sanh trí-tuệ để nhận-hưởng Giác-Tướng-Phật , vì sao? Vì thiếu tôn-kính , tín-ngưỡng , tín-nguyện, thời bản-năng nào đoan-chính , bản-thân đâu nghiêm-túc chứng-tri lấy Giác-Tướng , thành-thử chưa chu-toàn trang-nghiêm để tu-hành thực tiễn nên chưa đến Giác-Tướng, có đâu nhận-định nơi Thị-Hiện Phật.
Phật -Thị-Hiện VÔ-TRỤ- ĐẲNG CHÁNH-GIÁC , khó nghĩ bàn, Ngài đã thoát tất cả HOA-PHÁP Giả Tướng , chu-đáo tận-dụng Giác- Tướng , chủ-trì điều-ngự hoa-pháp , thuyết-ngôn Phật-Ngữ PHÁP- HOA.
Dù cho Phật gần với Chúng-Sanh , cười nói bình-đẳng với tất-cả hay an-nhiên tĩnh-tọa hoặc ra vào đi-đứng , cử-động hành-động chi-chi chăng không bao giờ mất THỂ-CÁCH , NHÂN-VỊ , THIÊN-THỨ , BỒ-TÁT-TỰ , cùng với CHƯ-PHẬT Uy-Nghi GIÁC-TƯỚNG . Có như thế , làm như vậy , rất TOÀN-THIỆN Cứu-Độ. Tất cả nương nhờ nơi DIỆU-DỤNG Cung-Kính đặng HOÀN-GIÁC , thì thử hỏi kẻ Tị- Hạ kia như thế nào ? Phải chăng là kẻ tham đầy dục-vọng chăng ? Làm thế nào chu đáo lãnh-hội lời PHẬT-NGỮ .
NAM MÔ HIỆN-GIÁC . TỊNH-VƯƠNG NHƯ-LAI- PHẬT
ẤN-CHỨNG
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ CHÍN:
Nói về HOA-PHÁP , thật cả một vấn-đề đối với tất cả chúng-sanh- tánh bị thọ-sanh nhiễm nơi Tánh Hoa Pháp . Khi Tu- Hành Tự-Nguyện đặng Trực-Nguyện đồng CHÁNH-NGUYỆN , thoát khỏi Hoa-Pháp , trọn-vẹn Chánh-Giác , chính Bậc VÔ-THƯỢNG.
Bằng chưa thực-hành tu, chưa TỎ-THÔNG-ĐẠT-TẬN-THÀNH , dù cho Trí-Tuệ Thiền Trí viên-đạt chăng , vẫn còn tập-khí bị-sanh nơi Hoa Pháp-Tánh.
Kể từ thời-gian lầm-mê nơi Hoa-Pháp không có hạn-lượng. Nói đến Tận-Giác Tận-Thành cũng không thể nào định-mức.
Tất cả Tứ-loài trong Tam-Thiên Đại-Thiên Thế Giới , cùng hàng Bồ- Tát , từ Sơ-Trụ đến Đại Bồ-Tát cùng Phật-Giới chưa hoàn-mỹ thảy đều an-dưỡng nơi Hoa-Pháp . Có Hoa-Pháp như thế nên mới có NGUYỆN độ chúng-sanh , Chư PHẬT mới ra đời cứu-độ . Bằng chẳng có Hoa-Pháp thì không có chúng-sanh và Phật. Do đó nên chi mới đắp Tượng, Tướng-Phật ngồi trên tòa sen, tiêu-biểu ngự-trị Hoa- Pháp.
Khi Thọ-Nhiễm , Đức Phật lai-sanh cứu-độ vẫn đi trong qui-chế của Chúng-Sanh-Giới mà thọ-sanh . Từ nơi bản-tánh chưa hiểu đến mức-độ hiểu , từ chỗ chưa biết đến nay đặng Biết , sống trong lối sống đồng-đẳng thông-thường , không thể nào vượt tầm quy-định . Nhưng có hai thể cách khác nhau , ở nơi Bồ-Tát Phật dụng CĂN-CƠ , còn chúng-sanh-giới dùng DUYÊN để tiến-bộ.
Tuyệt-tác thay ! Hoa-Pháp diễn-hành , năng-biến tự-biến quay vòng trở thành Hoa-Pháp-Giới , làm cho tất cả thảy đều lầm-mê . Sự mê- lầm kéo dài từ nơi Thời Gian đến Không-Gian , chu-kỳ PHẬT và Chúng-Sanh đều GIÁC-NGỘ . Sự vận-chuyển nơi Hoa-Pháp , tuần- hoàn gọi là VẠN-PHÁP , nơi Vũ-Trụ với con-người đều đồng một lối vòng tròn không hơn kém, nên cho nó là bánh-xe LUÂN-HỒI thuyên-diễn.
Phải chăng Chúng-Sanh thọ-giới giả-mê hay mê thật ? Nếu thật-sự Mê thì không có Giác. Bằng giả mê , khi cần thức-tỉnh, liền đặng tỉnh , cớ sao lại cứ MÊ ? Càng mong-mỏi bao nhiêu, càng cố-gắng đánh-đổi bao nhiêu để đoạt đến Giác , thời nó lại thêm vào chỗ Mê , chưa bao giờ đặng Giác. Lý-Sự đúng-sai , sai-đúng làm cho tất cả các bậc Tu- hành truy-tầm vạn lối , Tâm-Trí vẫn sai-biệt , chẳng biết làm thế nào hơn là PHƯỚC-THIỆN, kiến-tạo đặng bao nhiêu chỉ biết nơi Kiến- Tạo thôi , ngoài ra chẳng nắm vững con đường tu-tập .
Nơi Tâm-trạng của các bậc tu-hành Chánh tín , đối với Bậc Chỉ-Đạo Chánh-Giác , bậc Tu-Hành cầu Bảo-Pháp chưa lãnh-hội đặng thật đáng kể , vì sao ? Vì mỗi mỗi bậc tu-hành thảy đều có mỗi mỗi nguyện-vọng nơi lòng mong muốn chủ-đề . Đa phần nơi mong muốn về Dục-Vọng , dục-vọng không ngoài SẮC hoặc THINH ( Thinh là lời khen tặng Danh-giả ) HƯƠNG tức là tiếng thơm danh-vị trên đời , cho nên Hương cùng Vị phải đi đôi, Sắc cùng Thinh đều liền-lạc , gọi là SẮC THINH HƯƠNG VỊ , cứ thế mãi tu-cầu . Bằng có kẻ ngược lại thì bậc tu-hành đánh đổ tức-giận , trở thành con đường tu nơi Hoa- Pháp , Hoa-Pháp chính là Sắc-Thinh-Hương-Vị chuyển xoay ra nhiều hình-sắc , tùy-thuận tất cả Tứ-Loài trong Tam-Thiên Đại-Thiên Thế- Giới Rồng-Người, theo như ý muốn mà đáp-ứng , gọi là HOA-PHÁP- GIỚI . Hoa-Pháp-Giới cùng Pháp-Giới một THỂ , nhưng Hoa-Pháp- Giới tế-nhị hơn , linh-động đến nổi Phật vẫn lầm-mê mà phải trụ- chứng nơi PHẬT-GIỚI .
Giới nơi Hoa-Pháp , Bậc Bồ-Tát Hạnh-Nguyện qua từng bối-cảnh, cúng-dường Như-Lai Tam-Thế , vẫn còn vướng-mắc nơi Hoa-Pháp- Tánh.
Bậc tu cầu Tri-Kiến Giải-Thoát phải thực hiện thường soi nơi Tánh mình , chủ-yếu rõ bản-tánh của mình thay-đổi , tham-vọng , thích- vọng bảo-thủ hơn là cải-thiện Bản-Năng Tánh-Chất . Lúc cải-thiện nơi Tánh của mình đặng gọi là SỬA-TÁNH . Liền rõ-ràng SỰ thay đổi hoặc không chịu thay đổi các Tánh- Chất của những kẻ khác nên bị Thọ-Nghiệp Hoa-Pháp mà vướng trong Sanh-Tử theo Tánh-Thọ- Nghiệp , gọi là Tự-Tánh mình đồng Tỏ-Tánh kẻ khác. Tu nơi Pháp- môn TỰ-TÁNH TỎ-TÁNH , thời đặng TÌM CHƠN TÁNH ĐỂ TU. Bằng không tu như thế thì khó thành-tựu , khó Giải-Thoát .
THẾ NÀO LÀ PHÁP-MÔN GIẢI-THOÁT?
PHÁP-MÔN GIẢI-THOÁT là một pháp-môn. Đi trên vạn-pháp không vướng-mắc . Từ hoàn-cảnh trong Đạo-Tràng gây-hấn, cho đến ngoài Nhân-Thế bà con , giòng họ , nơi va-chạm nhau trở thành hoàn- cảnh THUẬN và NGHỊCH không vướng-mắc , nương nhờ HỶ-XẢ-TÂM , có CÔNG NĂNG kiến-tạo không bị vướng-mắc , chớ chưa phải Tận-Diệt đặng không vướng-mắc, gọi là Pháp-Môn Giải Thoát.
Thực-hiện Trí-Tuệ Cứu-Cánh Giải-Thoát . Có Trí Tuệ hóa-giải Nghi- Chấp , hóa-giải bờ-ngăn làm cho con đường mình đang tu gián-đoạn , phải có trí-tuệ cứu-cánh mới thành-tựu giải-thoát, bằng chưa có trí-tuệ hóa-giải thì có tu vạn kiếp vẫn là tu nơi Hoa-Pháp cố-thủ , không giải-thoát .
Chớ mong cầu mình giải-thoát , hãy thực-hiện : SẮC-THINH-HƯƠNG-VỊ không nhiễm , liền chứng-tri giải-thoát . Thế nào thực-hiện Sắc-Thinh-Hương-Vị-Xúc-Pháp ? Những bậc giàu có tiếng-tăm , hoặc giả chức-vị tiếng-tăm . Nơi giàu-có không cố tâm lạm-dụng nơi tiền bạc làm cho giàu-có nhiều lên . Có chức-vị uy-quyền , dùng chức vị uy-quyền hà-hiếp thời chớ nên dùng chức-vị hà-hiếp . Đó chính là thực-hiện Sắc-Thinh-Hương-Vị không vướng-mắc nhiễm-trước , liền chứng-tri Giải-Thoát .
Những bậc tu-hành Pháp-Môn Giải-Thoát , thực-hành đặng bốn-tướng Sắc-Thinh-Hương-Vị không nhiễm , liền điều-ngự-tâm, bằng cách họ khen chớ mừng , bằng họ chê-bai nói xấu chỉ-trích phi-pháp chớ hờn- giận . Từ hờn-giận khen-chê tốt-xấu bị-nhiễm phiền-trách đều là Pháp-Giới Hoa-Pháp. Qua tất cả như thế, điều-ngự-Tâm đặng như vậy , liền kiến-tạo bản-năng soi-sáng . Đó chính là Tỏ-Tánh dứt khỏi Hoa-Pháp mà Kiến-Tánh.
Nơi Kiến-Tánh nó tận-dụng KHÔNG SẮC-TƯỚNG vẫn THẤY- BIẾT , nó từ nơi CHÂN-TÁNH phát-hiện ở nơi Soi-Tánh Sửa-Tánh mà tự thấy đặng Tánh , nhờ tu Pháp-Môn Giải-Thoát nên chi thường- tánh sáng soi nơi Không-Tướng vẫn Thấy .
Không-Tướng mà Thấy đặng , chính là DIỆU-QUANG SÁT-TRÍ , tận dụng Trí để thấy , đương nhiên đặng nơi TỰ-BIẾT , không nói năng chi vẫn biết . Nhờ nơi Biết Sửa-Tánh liền soi đặng Tánh , mới nhìn- nhận rằng : Có hằng triệu con người đang sống trên quả địa-cầu , mỗi con-người có một CĂN-TÁNH làm chủ , ngoài ra TƯ-TƯỞNG sanh Tánh , VỌNG-Đảo THAM-Muốn sanh Tánh, bao nhiêu CẢNH sanh bấy nhiêu Tánh bởi TỰ-NGÃ sanh Tánh . Tánh đã Sanh liền lại Diệt, nên chi có rất nhiều Tánh Sanh-Diệt , Diệt-Sanh . Nơi Tánh sanh-diệt ấy đều là Tánh phụ thuộc của Hoa-Pháp-Tánh , tận-dụng Diệu-Quang đặng Thấy thời Tỏ-Ngộ Pháp-Giới của Hoa-Pháp-Tánh .
Chớ nên dùng Thương-Ghét Lý-Đoán mà Thấy , hoặc suy-tưởng nặng nhẹ để mà Thấy . Phải TRỰC-TÂM TRỰC-THỌ NHƯ-NHIÊN quán-sát mới đặng nơi thấy TỎ-TÁNH , nó rất cần nơi CÔNG-NĂNG chẳng còn chướng-đối nơi hai LÝ-Chướng và SỰ-Chướng Tự-Ngã để thấy.
Bậc tu-hành nên tường-tận Hoa-Pháp mới tỏ-ngộ Vạn-Pháp Hoa-Pháp rất tế-nhị , nếu chưa có Nhãn-tịnh sáng soi rất dễ lầm, nên chi PHẬT dạy : Tu nơi con đường TRUNG-ĐẠO , không nặng-nhẹ về Lý-Trí mà cũng không nhẹ-nặng nơi Thực-Hành.
Nếu nặng-nhẹ một bên , thì nó chỉ Hiểu đồng Biết trong khoảng khắc liền trôi qua chẳng thâm- nhập pháp-giới của Hoa-Pháp . Phải tu nơi LÝ-SỰ đồng-song , Bất- Tăng cùng Bất-Giảm mà triệt-thấu , viên-đạt giải giới Hoa-Pháp . Rất có nhiều bậc Tâm-Chí không có Tự-Ngã , không Chấp-Pháp , nhưng Lý-Chướng đương-nhiên Chấp-Ngã và Chấp-Pháp . Vì sao ? – Vì Lý- Chướng là gốc Chấp-Pháp . Sự-Chướng là gốc Thọ-Ngã . Hoa pháp rất tinh-vi khéo-léo làm cho các bậc tu-hành sơ-xuất phải bước vào nơi: Không-Chấp bị Chấp-Không. Do nơi LÝ-CHƯỚNG , SỰ-CHƯỚNG bất ngờ sai lệch mỗi một ly, chứng-tri lạc-lõng hàng nghìn dặm . Nên chi Hoa-Pháp đưa đẩy mới có Tu-Chứng hàng lớp-lớp để an-trú nơi ĐÀI – HOA – PHÁP – GIỚI .
THẾ NÀO LÀ ĐÀI-HOA-PHÁP-GIỚI ?
ĐÀI HOA-PHÁP-GIỚI, chính là một hệ-thống SẮC TƯỚNG GIẢ-TƯỚNG. Nơi Sắc-Thinh-Hương-Vị-Xúc-Pháp, thọ giã có từng lớp đắm say tập-nhiễm , thường-nhiễm nặng-nhẹ đặng an-trú trong Tòa Hoa-Pháp mà Thọ-Giới . Cho nên mới có TAM THẾ PHẬT , chia ra làm TAM-GIỚI , lại thêm TAM- THIÊN Đại-Thiên Thế-Giới , cho đến Ba-Cõi , Sáu-Đường , tất cả thảy đều an-dưỡng trong Đài Hoa- Pháp-Giới.
Từ Nhân-Sinh với Tiên-Thần , từ Tiên-Thần đối với Thinh-Văn Duyên-Giác thảy đều có từng lớp , cho đến Bậc Bồ-Tát tận-dụng nơi Nhãn-Tịnh để sáng-soi Căn-Nghiệp , Bồ-Tát nương nhờ lìa hẵn chướng-đối hòa mình nương nơi Thuận-Nghịch , Tâm không quái- ngại mà sở-đắc Nhãn-Tịnh.
Bồ-Tát lại Bố-Thí Vô-Úy-Thí , đem lý-sự hiểu biết nơi mình mà diễn- đạt cho tất cả chúng-sanh Tâm không nhàm chán , Tánh đặng bình-đẳng mà nhiếp-độ Lục-Đạo Pháp-Giới , thâm-nhập Pháp-Giới, mới tỏ ngộ thâm nhập , tu-trì tinh-tấn , lướt qua các Pháp-Giới , trình-độ Tận- Giác – đặng Tri -Kiến Pháp -Giới , lìa Sắc-Giả-Tướng , đặng Giác- Tướng mà thoát khỏi Đài Hoa-Pháp , đoạt Vô-Thượng Chánh-Giác Thành Phật .
Khi Bồ-Tát thành Phật , Tổng-Trì Đà-La-Ni-Tạng , mỉm cười tự hỏi: Tại sao khó như thế ? Nói đến SỰ-Khó cùng Lý khó , thật vô-vàn khó. Đến nỗi ĐỨC THẾ-TÔN Ngài thuyết pháp 49 năm , Ngài còn nói : Ta thuyết pháp đâu bằng rừng lá nầy. Rừng lá nó có hằng-hà sa-số lá , lời Ta thuyết chỉ bằng một nắm lá nơi tay. Như thế đủ biết , lời thuyết sự lãnh-hội thật khó-khăn , tu-hành qua Đài-Hoa-Pháp-Giới thật là tuyệt khó. Nhưng đầy-đủ Công-Đức Công-Năng Chứng-Thị Trực-Giác thì sự khó-khăn kia chưa hẵn là khó.
Khi TA THỊ-CHỨNG , trải qua gần mười năm mới CHỨNG-THỊ, TA chép lại Bài-Thi kỷ-niệm để Tứ-Chúng đọc xem bài Thi:
CÙNG MỘT MÙA THU . TA ĐỨNG NHÌN MÂY .
Đêm nay Ta đứng nhìn mây
Trúc mềm buông rũ , Trăng gầy lửng-lơ.
Nghìn SAO vun-vút tỏ mờ
Hồn chung vạn nẽo lời thơ tâm-tình .
Dù cho PHẬT-THÁNH , HIỆN-THÂN , Sinh.
Đâu khác nào TA diễn lộ trình.
Vẫn một sớm chiều MAN-MÁC-TÍNH
Do lòng đồng-hóa hợp duyên trinh .
TA đứng nhìn mây ý mộng vàng.
Thời xưa Chư-Tổ vẫn cưu mang.
Nhân-Sanh Vạn-Tướng hồi Như-Tướng .
Cốt tỏ Nguyên-Chân rõ Niết-Bàn .
Dù rằng , Bậc Thánh đến phàm-phu
Chưa thấu DUYÊN-CĂN vẫn mật-mù.
Bổn-Thể xoay vần HOA-PHÁP-TÍNH .
Chẳng thông phân-tách kém duyên tu .
* * *
Hôm nay hiệp cảnh trời mây,
Tâm-Tình Chư-Tổ vơi đầy Đồng-Sinh.
Mấy ai thấu rõ chính mình,
Của Như Lai Dụng hiện hành Pháp Thân.
Lòng Vàng lời trổi chuông ngân,
Mùa Thu gợi nhớ vẹn phần xinh xinh.
Trung Ương Hội Thượng, ngày 09.06.nămQúi-Sửu(08.07.1973 )
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Thiền-Sư Hạ-Sanh năm 1918 đến năm 1983 , gần bốn mươi năm mới nói lên sự thật .
Tuyệt-tác thay ! Tài liệu PHẬT-ĐẠO , mục-đích đưa Nhân-Sinh với Vũ-Trụ giao-thông hợp-hóa , con người mới Thành Phật. Bằng chưa hợp , chưa bao giờ thành . Ngài nói thẳng :
– VŨ-TRỤ đối với Con-Người , Con người đối với Vũ-Trụ .
– PHẬT-ĐẠO với Con Người , Con người với Phật-Đạo.
Đề-tài nầy Con-Người và Khoa-Học từng nêu ra , khoa-bút những nhân-tài đã từng viết thành tập , nhưng chưa đúng với mục tiêu , chỉ nghiên-cứu nơi học-giả , bề vỏ bên ngoài sanh-diệt. Vẫn có lắm bậc thực-dụng tài-liệu trên con đường Tu-Phật, chưa nhận-chân cụ thể làm thế nào tận Giác ?
Khi con người Giác mới công-nhận tuyệt-tác tài-liệu Phật-Đạo là một ngón tay thực-tế chỉ cho con người với Vũ-Trụ đồng-đẳng Giác-Chân.
Thiền-Sư nhìn nơi cây-cảnh , nhìn đến con-người cùng thế-giới , Thiền-Sư nói : Đời đang làm , tích cực để làm . Vũ-Trụ vận-chuyển không ngừng nghỉ , Ta đồng làm , tất cả làm xong rồi để đó. Ta xuôi dòng làm , tùy-thuận làm cốt tỏ-thông tận-giác Vũ-Trụ với TA.
TA nói những gì khi TA đang nói , con người chưa rõ lời ta , vì thế- giới chưa đạt đến cơ-cấu trình độ biện-minh , đều cho TA nói bậy. Khi đã có biện-minh chứng-từ của thế-giới với con người. Nếu TA nói , họ đồng cho TA là kẻ nói hùa . Dù TA đang sống thế-hệ với con người, lời Ta nói là lời Rỗng-Không Vô-Tận . Ta nói chỉ Ta biết , Ta nghe, Ta cùng Vũ-Trụ cảm-thông , Vũ-Trụ nhờ Ta nói hộ , chưa phải là TA chưa biết nói, chỉ nơi con người chưa tin lời nói của Ta nên chưa nghe đặng lời Ta đang nói , hay đã từng nói để rồi nghe.
Lúc Ta sắp nói , nhìn từ Nam đến Nữ , già-trẻ bé-lớn , thấy họ chỉ ngó ngang , ngó dọc , tốt lắm họ ngó trên đầu van-vái , họ lại ngó xuống từng lớp người , họ thích nghe giọng nói để họ cười , họ kiên-sợ bị chê, họ ưa nghe lời nói mê, nên chi lạy-lục , lễ-bái cầu-vái linh-thiêng, xin đủ lợi-quyền , chưa nghe đặng lời TA nói .
Đối với họ thường gây rối . Lạ thay ! chẳng cho Ta nói dối hay thật , chăm-chỉ chật-vật cứ tu.
TA ngồi suy-nghĩ kỹ . Vạch thật tỉ-mỉ Vũ-Trụ đối với Con-Người , nói đủ chứng-từ , may ra họ ừ-hử . Nhân-Sanh khai-thác thử , cốt thoát- sanh đường Sanh-Tử . Nơi Hiện-tượng mượn Giác Chân-Như , nơi Danh-Từ , ừ Trực-Giác .
Thiền Sư nói :
THẾ NÀO VŨ-TRỤ đối với CON-NGƯỜI .
Vũ-Trụ với con người thảy đều một thứ, một Thể Tư-Cách hành-động thảy đều như nhau , không sai biệt , nó nhịp-nhàng từ nơi trên của Vũ- Trụ , đến bậc dưới nơi thế-giới con người , chẳng sai-biệt mỗi một li nào cả . Do nơi con người bé nhỏ chưa nhận-định đặng bản-chất thể tánh hiệp-hóa , trong thân-mạng của con người cùng Vũ-Trụ , phải đặt thành bộ để khám-phá Vũ-Trụ . Từ Vệ-Tinh nhân-tạo kiểm-sát đến bộ máy đo-lường điện-tử đủ các thứ vật chỉ học theo máy-móc , nơi con người sáng-tạo ra nó , rồi phải học nó . Thật buồn cười thay Lắm chuyện Tiếu-Lâm Con người đối với Vũ-Trụ .
Phải chi con người tự thân-tâm hóa-cải chế-biến bộ-máy vệ-tinh ngay bản-thân nơi mình kiểm-soát kiềm chế ngự-chế , liền thông-đạt Vũ- Trụ với con người , đồng linh-cảm nhẹ viễn-thông , chừng ấy muốn đi nơi nào chẳng đặng , muốn đo-lường tầm-mức thấp-cao , biết sự vận- chuyển giao-tế rành-mạch lại nhìn-nhận đặng hình ảnh đã có từ trăm nghìn năm , nay thấy đủ . Lúc Tứ-Đại thân-mạng phân chia làm xong một kiếp , thoát-sanh nơi chốn chính mình quyết-định , liền như ý- nguyện , làm như thế có hơn không ?
Hãy nghe TA nói : Vũ-Trụ linh-động siêng năng tinh-vi , nhờ thế mới thành hình hoàn mỹ từ lâu. Còn Thế -Giới của con người , mãi xây dựng củng-cố vẫn chưa toàn thiện-mỹ . Vũ-Trụ lại có Thiện-Chí áp- dụng thanh-thô tế-nhị bồi-đắp hoàn-thành , nên cơ-cấu tự-động chia ra nhiều PHẨM. Hành-Tinh là cơ-cấu , hành-tinh có đủ cỡ lớn-nhỏ , hẹp- rộng , tròn-méo , nhờ có đủ Phẩm hiệp-hóa trở thành SIÊU-PHẨM.
Nhìn nơi hư-không Mặt-Trời , Mặt-Trăng , cùng các hành-tinh lấm- tấm như thế , nó rời-rạc xa nhau , nhưng rất khéo-léo, đã so-lường tỉ- mỉ trọng-lượng . Nhờ nơi trọng-lượng tinh-vi mà các hành-tinh vận- chuyển giao-tế cung-cấp tương trợ cực-kỳ tinh-xảo, phải dùng bộ- máy , những bộ máy thật là tối-tân mới biết đặng . Nói đến Siêu-Phẩm đã hình-thành , do các hành-tinh buông-tỏa hổn-hợp , đôi mắt nhân- sinh không thể thấy , nó hoà với Hư-Không trên thượng-tuần đến trung-tuần đã có CHẤT với PHẨM . Lúc trở thành Chất-Phẩm thì nó đã thuộc về VI rồi , nơi máy Siêu-Điện-Tử dùng Tín-Hiệu đều là VI- CHẤT-PHẨM.
Từ nơi PHẨM , đều nương nơi các Hành-Tinh , mỗi hành-tinh có một Phẩm đặc-biệt THỂ-PHẨM của nó , phối hợp mà trở thành PHẨM hoàn-toàn đủ Phẩm , cũng có thể gọi nó là Chung-Hoàn-Phẩm , để cho dễ nhận-định mà thôi.
Nhờ chỗ biến phẩm , hóa-chất nó mới tùy nơi trọng-lượng cung-cấp cho Mặt-Trời , Mặt-Trăng và Quả-Đất , còn nhiều nơi cung-ứng nữa. Sự cung-ứng rất tinh xảo toàn-diện hoàn-toàn phù-hợp để cho các Cõi như Cõi Trời , Cõi Nhân , các cảnh giới Thiên Tiên, Tiên-Thần Thánh-Hóa cho đến Tịnh-Độ không thể nào kể nổi , sự linh-động tùy- thuận cung-cấp nơi Thể-Chất của Phẩm đặng.
Đứng nơi con-người để nói , thời Vũ-Trụ có trọng-trách nuôi-dưỡng, kiến-tạo hợp-hóa thanh-khí , còn quả-Đất tỏa hơi hòa-hiệp thành không-khí để hiệp theo hơi thở không sai với sự sống con người.
Nói như trên để làm chi ? Để chỉ thẳng trong thân-thể tứ-chi đầu não con người . Nếu con người kiểm-soát ngự-chế đặng sự hoài-vọng phức-tạp liền nhẹ-cảm linh-cảm nhìn-nhận chính nơi Trí-Hóa của mình đã nhìn thấy Siêu-Phẩm cùng lý-sự linh-động di-chuyển hòa-hợp khéo-léo . Có sẵn như thế con người mới sáng-tạo, phân định ráp từng bộ-phận các bộ-máy trở thành những bộ Máy Điện-toán và thu-thanh phát-thanh, thu-hình phát-hình, trưởng-thành văn-minh kiến-tạo , cho nên TA nói : Con người và thế-giới chỉ biết làm , làm xong để đó, chớ nào biết đặng chính bản-thân sáng-tạo ra nó , thời Ta có thể biết đặng nơi tinh-vi khéo-léo tuyệt-tác , nơi Vũ-Trụ cùng với Ta đồng-đẳng . Ta có thể làm đặng những gì mà vũ-trụ đã sẵn có làm , chính thân- mạng nơi Ta đã biết , nơi biết để mà làm , cùng với làm sẽ đặng biết.
Vũ-Trụ rất giàu-mạnh đầy-đủ PHẨM , đặng CƠ-CHẾ nhiều Chất-Phẩm . Còn nói về Tiềm-Năng mạnh thì thật vô-kể . Nhà Khoa-Học hiện-đại đã từng đo lường sức-mạnh tỏa chiếu ánh-sáng nơi mặt-trời , có tầm-số thật khủng-khiếp , thật tinh-vi . Nhờ nơi sức mạnh của các Hành-Tinh Mặt-Trời và Mặt-Trăng với Quả-Đất , nên mới giao-tế tiếp-nhận nhau, hóa-hợp để tự-động biến Phẩm-Chất cơ-chế , sống-động Vũ-Trụ với Con-Người.
Khi Ta nói quá tầm-mức , con người chưa lãnh hội đặng , cứ tin nơi Ta thực-hiện sẽ biết nhiều và rộng thêm . Thật ra nói chung gồm là Vũ-Trụ , chớ Vũ-Trụ nó rộng-lớn bao-la , tầm rộng-lớn nơi nó không thể nói hết nên Ta chỉ kể hiện tình và hiện cảnh con người đang sống , đặng sống trong vùng Thái-Dương-Hệ , còn ngoài vùng hay bá-thiên vùng khác sẽ hiểu sau , không lo chi không hiểu , cứ thực hiện liền hiểu biết tận-tường lời Ta nói thật.
VÙNG THÁI-DƯƠNG-HỆ .
Các Hành-Tinh chiếm đóng , có hệ-thống sắp-xếp tinh-vi khéo-léo, mỗi một vị-trí của một hành tinh đều xa nhau bao nhiêu không phận , tùy nơi tiềm-năng xuất-phát của nóng-lạnh mức-độ, tránh Phẩm từ trong Hành-Tinh phát ra , không bị va-chạm nhau, tận-dụng nơi hòa- hợp làm cơ-bản tượng-hình để chiếm đóng.
Tựa như Mặt-Trời , mặt- trăng phải đóng xa quả đất , nhưng có đặc-điểm tinh-vi là mỗi một hành-tinh quan-hệ gọi là Trung-Ương thì có bao nhiêu hành-tinh khác đóng chung quanh để đồng nhau xoay vòng tiếp nhận , phối-hợp tỏa ra đưa về hành-tinh quan hệ , đồng toả ra giao-tế thu-phẩm và tỏa-phát- phẩm.
Nhưng khi thu vào hành-tinh thì nơi Phẩm khác với lúc tỏa ra. Nói chung lại tất cả thảy đều cơ-chế các Phẩm hợp-ứng dung thông chung khắp nuôi-dưỡng chung với vùng Thái-Dương Hệ, còn ngoài vùng Thái-Dương không giao-tiếp nhau đặng.
Mặt ngoài vùng Thái-Dương-Hệ , có vòng đai bao bọc , gọi là QUẢN- CHẤN , vòng quản-chấn nầy nó không khác mấy với đường Xích-Đạo cùng vòng đai Khí-Quyển bao bọc quả đất.
Nhưng nó tùy-thuận nơi đường thẳng kính của lớn-nhỏ rộng-hẹp mà phát-hiện theo tỉ-lệ tinh vi của nơi ngự-chế hình-thành bao-bọc. Nhưng có thể nói : Từ vùng nầy không thể xuyên qua vùng kia được , vùng kia không xuyên qua đặng vùng nọ , vì chưa đồng Phẩm nên không thể tiếp-nhận để xuyên qua . Nhưng nó vẫn nương-tựa nhau hình-thành chia ra nhiều vùng trải khắp Vũ-Trụ sống-động tự dung dưỡng , tự quản-lý củng-cố, phát-hiện củng-cố trở thành có lớn , có nhỏ , rộng hẹp khác nhau nơi vùng.
Không khác con người đang sống chung với con người trong xã-hội . Mỗi một con người đều củng-cố Tự-Ngã , Tự- ý phát-triển về trình-độ tư-cách , khó mà giao-tế cảm-thông đồng định-hướng nhau. Trừ trường-hợp , có người ưa ngó ngang, ngó dọc, liền hợp-tác những kẻ ngó ngang, ngó dọc giao-cảm để giao-tế nhau. Có bậc thích ngó trên đầu hay ngó xuống từng lớp con người, để cười, kiên-sợ bị chê , họ ưa nghe những cái Mê , liền thông qua cùng nhau giao-cảm với nhau , mới giao-tế nhau hành-sự động-tác với nhau trở thành xã-hội lớp nầy đồng nhau, lớp nọ bất-đồng nên chưa mấy ai hiểu biết chung nhau xây- dựng thực-tế để mà vui-sống cả. Chỉ có Thiền-Sư đã từng giao- cảm , giao-tế với tất cả lớp con người, Thiền-Sư biết từng tâm-tánh để giúp-đỡ , hành-sự giúp-đỡ , cốt rõ Biết đến thật Biết, do nơi đó Thiền- Sư nói chưa chắc họ cho Thiền-Sư nói dối hay thật mà họ vẫn tin lời Thiền-Sư nói để tất cả chật-vật cố tu . Nhờ như thế nên chi Thiền-Sư mới Thông-Đạt Tận-Thành , rõ tỏ tất cả mỗi một Cõi, hoặc Cảnh-Giới nào, nó phẩm chi, chất gì, Thiền-Sư hiện-hóa nơi đồng Phẩm mà Xuất Định vào thăm chơi Cõi ấy, cảnh-giới nọ rất tự-tại vô-ngại. Còn đa số nói xuất định , xuất hồn đi chỗ nầy nơi kia, chưa chắc đã làm như thế nỗi. Vì sao ? – Vì do nơi tự-ngã củng-cố nên chưa thực-hành đặng .
Từ một vùng Thái-Dương-Hệ đem so-sánh với Quả Địa-Cầu chẳng khác nào mỗi một con người đem ra so với một nước , thời quả địa- Cầu chưa thấm vào đâu trong vùng Thái-Dương-Hệ. Dù cho con người ấy mất hoặc giả quả Địa-Cầu tan-rã , thời chưa chắc trong vùng đã biết được ta mất một Địa-Cầu.
Ta nên căn-cứ vào một chỗ nhỏ để hiểu biết nơi rộng-rãi bao-la. Những kẻ ưa thích bao-la lung-lạc hiếu-kỳ là kẻ điên.
Từ một Nước ta đang ở, cho đến hàng triệu con người, trong nước con người hợp-tác tạo thành cơ-xưởng sản-xuất mặt hàng, liền có nhiều mặt hàng đã sản-xuất , do nhiều cơ xưởng nên đặng nhiều mặt hàng. Từ mỗi một hành-tinh , động-tác như một mặt hàng , nhiều hành-tinh trở thành nhiều Phẩm hợp-chất, có phải như nhau chăng?
Mỗi một nước vẫn tùy nơi năng-lượng tài nguyên phẩm-chất phong- phú hay chưa đặng dồi-dào phong-phú mà phát-triển cơ-xưởng sản- xuất mặt hàng nặng nhẹ, bằng dư ra thời bán, nếu thiếu lại mua thêm. Chẳng khác các hành-tinh thu-nhận cùng buông-tỏa sản-phẩm . Từ mỗi một nước nhỏ lớn cho đến hàng trăm nước trên quả địa-cầu trở thành Hoàn-Cầu Thế-Giới , đối với Thái Dương-Hệ bao gồm vẫn như nhau.
Nói đến con người, mỗi một người đều có một đặc-tánh , ở trong một nước có hàng năm chục triệu hay một trăm triệu người, liền có hàng triệu-triệu đặc-tánh khác nhau, ngoài ra các khía-cạnh đột xuất chưa kể, nên mới xảy ra thuận-nghịch, hòa cùng chướng-đối , nên chi khi hợp-tác phải có kỹ-luật bắt-buộc mới thành hình , bằng chưa bắt buộc không hình-thành đặng. Đối với hành-tinh có khác hơn con người về hợp-tác sản-xuất ở nơi không bắt-buộc , tự-động nơi đồng-hợp đồng- hóa không bao giờ bắt- buộc. Bằng không hợp với Phẩm trong thời gian bị phế, gọi là phế phẩm, phải nằm nơi cơ-cấu phế Phẩm. Do đó nên chi Vũ-Trụ toàn vùng hoàn-mỹ cơ-cấu từ lâu , còn thế-giới nơi con người phải thay qua đổi lại có hàng thế-hệ trong Cõi người ta.
Thiền-Sư nói : Nếu có ai hiếu-kỳ hỏi TA những điều mơ mộng chưa thực thể, thì TA lắc đầu cười không giải đáp. TA vẫn là một con người, Con người biết được Cơ-Hóa Phẩm-Chất đồng-đẳng Vũ-Trụ, Cơ Chế y như Vũ Trụ đã từng cơ chế lớp lang thứ lớp các Cảnh-Giới và các Cõi, từ nơi Thượng đẳng đến Hạ sanh trong huyền cơ Vũ-Trụ.
Từ nơi một con người cho đến trăm con người đứng với TA, mỗi một khi con người ấy muốn cho TA cơ chế trở thành Tiên Thần Thánh Hóa, tùy lý trí sở nguyện. TA liền chỉ cho để thực hành. Một khi biết nhận định nơi thực hành thì cứ việc làm mà tỏ rõ, do nơi Trực-Giác nhiều ít mới hóa-thân hình thành. Bằng những con người lười trễ chưa thực-hành làm , chẳng vươn mình thoát-sanh ra khỏi nơi lười trễ, đó chính là thân mạng nó đã tê liệt chết mất từ lâu, chính nơi nó chưa bao giờ biết nó đặng.
Đời TA, chính nơi TA vẫn phải thường làm, làm cốt đoạt đến chổ chưa hiểu biết nghi ngờ thực-hành giải-đáp nơi nghi ngờ đó mà thành đạt. Nơi TA có mỗi một Chí-Khí Trưởng-Thượng mà nên tất cả sự việc, nhờ nơi Hướng-Thượng mới hỷ-xả thân-tâm , tha-thứ các lỗi-lầm kẻ khác đã từng gây rắc-rối va chạm đến TA . Có như vậy, biết nó như thế nên chi TA tận biết đặng thể-chất hóa-chất nơi con người cùng tất cả bồi-dưỡng hay chính tự nơi thân-tâm mình phá-hoại. TA thương hại hơn là ghét vơ. TA xây-dựng hơn là vứt bỏ nên thường nói: Các ông tự xây-dựng thân-mạng của các ông . Không vị nào có quyền bắt các ông vào Địa-Ngục , hoặc đưa các ông lên Thiên-Đàng hay nâng các ông trở thành vị Phật, chỉ nơi Tâm Tánh các ông tự nâng lấy các ông mà thôi.
Từ cảnh-giới Tam-Thiên đến nơi Tam-Giới , những cảnh-giới nầy đều dung-dưỡng cho các bậc là con người cao-cống quảng-đại bao-dung tha-thứ cho kẻ lỗi-lầm không hờn oán , có bộ óc nhẹ-nhàng cùng thanh-thoát. Phải chăng có hợp-cảnh , hợp-tình mới Thượng-sanh vào cảnh-giới , đó chính là một lẽ dĩ-nhiên không chối-cãi , vì nó đồng phẩm-chất mới hợp-hóa nên hình Thiên hay Tiên Thần Thánh, đến các Cõi Tịnh-Độ, nơi Kinh-điển đã từng nêu ra. Bằng chưa kiến tạo, chưa thuần-thục sửa thay vì cầu vái van xin có đặng hóa để vào các Cõi chăng?
Thật khéo thay ! Vũ-Trụ điều-khiển cơ-chế, con người cùng Tứ-loài chạy theo hoài-vọng nên Bị-Sanh , Vũ -Trụ cân-đối năng-lượng phẩm chất nặng nhẹ mà bổ-sung luân-chuyển Tam-Thiên Thế-Giới đến Lục- Đạo cuồng-sanh . Con người chưa bao giờ đặng biết , chính nơi mình bưng ly độc-dược tự uống rồi than-thở số mạng nơi mình, ngờ đâu chỉ hơn nhau, thua nhau mỗi một tí đỉnh phải chịu Hạ-Sanh, Thượng-Kiếp mà làm thân trâu ngựa. Bởi nhân sanh chưa biết, Chư Tiên hoặc Thiên đâu ngờ, từ phân lượng chất phẩm, hơn thua nơi Căn Nghiệp để phải bị Vũ Trụ bổ sung thành hình trong các cõi.
Đối với bản thân TA, TA chưa hơn gì nhân thế, TA chưa bao giờ mong mõi trở thành Phật Thánh Tiên, TA chỉ cầu nơi TA hiểu biết đặng tỏ-tường, lấy nơi ấy làm chỗ thường sống, đặng sống nơi TA. Đời TA rất kiên-sợ thân hình hóa ra ông Phật, hóa đặng ông Tiên, nên TA thường gìn giữ Nhân -Nghĩa, nhờ vậy mới hòa-đồng bình-dị , bãi bỏ Tánh kiêu-kỳ , cho nên bạn-bè lân-cận thân-hữu không bao giờ hay biết, làm sao Thế-Nhân hay TA Thị-Hiện.
TA thường căn-dặn , những bậc tin Ta tu-hành, các ông tu-hành phải thực- hành : Thân kín-nhiệm , Tâm kín-nhiệm , Ý kín-nhiệm, chớ khoe khoan làm như thế. Thánh nào hay, Phàm đâu biết, đặng Chân- Giác hiện-tiền .Chớ nên xưng Thánh rườm-rà , Phật nhắm mắt, thật vô ích. Nhưng quái-đản, thật quái-đản ! có kẻ chẳng nghe đặng, họ ưa nhìn Tướng Phật để suy- tôn chiêm-ngưỡng, nhưng tướng Phật hình dung nào đâu có, chỉ ở nơi Giác-Tướng , làm thế nào nhìn trông ? Họ liền sanh tâm đồ chúng đảm phá Giáo-Môn. Phần TA thời TA chỉ cười, không nói đặng . Còn có Bậc tín tâm nghiêm túc, nhưng nơi tín tâm nghiêm-túc nọ , chưa có lý-trí thoát-sanh , chưa đặng hòa đồng trực-giác , họ tu từng món , họ rõ từng tong , họ không khoát-đạt, họ lại vào toàn Pháp-Giới , họ chưa thật biết , nói ra hòa đều tận-giác .
Đứng nơi tư thế của nhân-sanh tứ chúng cho đến toàn thể tứ loài , khó phân-định cho đặng thế nào là Tri-Kiến . Vì sao? Vì vốn tứ loài tất cả thảy đều Thấy Biết , còn Thấy Biết nào mới đặng Tri-Kiến? Từ nơi một câu tự hỏi , cho đến triệu câu tự lòng mình tự hỏi . Có lắm bậc hình-thành mường-tượng cái Giác là Tri-Kiến, thì cái Giác nó như thế nào ? Tất cả sự việc lý-trí tài-năng , khả-năng đối với Nhân-Sanh Tứ- Loài đều có , nên mới phát-triển nhịp-nhàng , đồng-đẳng thực-hành chung với Vũ-Trụ , vẫn từ nơi chưa biết đến hoàn-mỹ đặng biết , hiện hành phát-triển như thế có phải là cái Giác chăng ?
Những câu tự hỏi của những bậc đã từng tu học , đã từng nghiên-cứu thoát-sanh vươn mình . Nhưng họ nào có hay biết đặng họ đang bị quyền hành bổ-sung điều-khiển của Vũ-Trụ sai khiến trong vòng đai pháp-giới mà sanh-tử . Họ vẫn khôn , họ vẫn Giác , họ đủ lý-trí tài- năng cùng khả năng , nhưng tài-năng khả-năng ấy họ còn đang nằm trong hố sâu Pháp-Giới , thì làm sao thoát khỏi quyền bị trị để tự chủ. Vì như thế , nên chi nơi Thấy Biết thảy đều Thấy Biết Bị Thấy chớ nào TỎ Thấy đâu .
Còn như Ta TỎ Thấy , nên TA Thấy quân minh đồng đẳng , Thân Tâm đồng đẳng đặng cái Biết đồng đẳng , có Đồng Đẳng như thế mới Tận Giác Đồng Đẳng gọi là Vô Thượng . Vì nơi Đồng Đẳng nên mới Vô Thượng không có nơi nào gọi là Cái Thấy cao hơn TA đã Thấy mà Chánh-Giác .
THẾ NÀO LÀ CÁI THẤY QUÂN-MINH ĐỒNG-ĐẲNG ?
Thấy Quân-Minh Đồng-Đẳng mới Tận-Thấy Tận-Giác .Tất cả vạn chất đều quân-minh , các pháp đều Bình-Đẳng . Không lấy, chẳng bỏ, Thị-Chứng Tận-Giác .
Tánh nó thấy Tánh, Ta chưa bao giờ thấy . Thị-Chứng mới Thấy.
Nghiệp nó giải Nghiệp, nó thấy Nghiệp. Ta chưa bao giờ thấy, Thị-Chứng mới Thấy.
Thiện nó huân-tập Thiện , nó thấy Thiện , Ta chưa bao giờ thấy, Thị-Chứng mới Thấy .
Ác tương-đối với Thiện , liền phản-chiếu , nó thấy nó . Ta chưa bao giờ thấy nó , Thị-Chứng mới Thấy .
Lại nữa , nơi Tánh nó huân-tập kết-nạp vạn-chất, vạn-chất thảy đều vạn-pháp bao vây diễn-hóa, trở thành pháp-giới của Tánh . Nó biết nó đồng thời thấy nó, CHỚ TA NÀO PHẢI NÓ, Thị-Chứng mới Thấy.
NGHIỆP nó CỐ-CHẤP dừng trụ , trở thành Nghiệp . Nó lại ngại ngùng giải Nghiệp , nó thấy nó , chớ Ta nào phải nó , Thị-Chứng mới Thấy .
THIỆN . Nó cầu lấy Thiện . Nó làm phước-thiện , nó huân-tập Thiện đặng an-nhàn thanh-thoát , nó thấy nó , chớ Ta nào phải nó, Thị- chứng mới Thấy .
ÁC tương-đối phản-ảnh của vạn-chất Thiện , lòng nó kiên-sợ, nó đặng thấy nó . Bằng chưa kiên-sợ nó vẫn kết-nạp vạn-chất ác làm Căn, dung dưỡng Cá-Tánh , xuôi theo Tự-Mãn thời nó vẫn chưa thấy nó. Lúc nó đặng thấy nó chính khi nó phản chiếu nó , nó thấy nó , chớ Ta nào có phải nó . Thị-chứng mới Thấy .
Tất cả trong vạn-chất vạn-pháp , Từ nơi Thiện-Ác , Tốt xấu , Lấy Bỏ, Được Mất , Có Không , đều là Cơ-Cấu vòng-đai pháp-giới. Sự Thấy Biết lầm ở trong Pháp-Giới , cao-thấp , thăng-trầm đều nằm nơi hố sâu Pháp-Giới. Nếu Nhân-Sanh Tứ-Loài cùng các bậc tu-hành bị lầm trong Pháp-Giới , ở nơi hố-sâu thì làm sao tận-thấy Minh-Quân để BÌNH-ĐẲNG QUÂN-MINH thoát khỏi Pháp-Giới?
Sự lầm này chung khắp Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới Rồng-Người đều phải lầm , dù Trí-Tuệ Siêu-Đẳng cao-cống đến đâu vẫn phải lầm, Chỉ trừ CÔNG-NĂNG mới lần thấu , CÔNG-ĐỨC đầy-đủ mà Thị- Chứng . Bằng chính nơi con người hoặc giả Bậc Thiên-Tiên , cho đến hàng Bồ-Tát khi chưa đầy-đủ , ngỡ chính mình đã GIẢI-GIỚI thoát- sanh vẫn còn trong vòng SANH-TỬ . Vì sao ? Vì Chim Phượng- Hoàng kia sanh đẻ ra trứng phượng-hoàng , khi trứng phượng-hoàng chưa ấp-ủ hoặc giả ấp-ủ chưa đúng với chỗ Hóa Hình hay đã hóa hình nhưng chưa đúng thời nở, thời làm sao Chim-Con Phượng-Hoàng thoát sanh ra đặng ? Đối với nơi thoát sanh vẫn như thế .
Khi bấy giờ Phật-Đạo có trọng-trách đưa con người Nhân-Sanh Tứ- Loài nên mới khai-hóa con người và Tứ-Loài đặng rõ biết , sự rang- buộc Sanh-Tử , lần hồi tu-hành , cốt thoát-sanh khỏi Vũ-Trụ , làm chủ vạn-pháp nên mới nói “ TÂM-KINH BÁT-NHÃ ” cứu giúp các bậc tu-hành Thị-Chứng như sau:
BÁT-NHÃ TÂM-KINH ẤN-CHỈ
*************
Thấy TỰ-TẠI BỒ-TÁT , Thời PHÁP-GIỚI Tự-Tại Bồ-Tát , chớ chưa phải Bồ-Tát . Bằng cho mình Bồ-Tát phải HÀNH-THÂM BÁT-NHÃ-LA-MẬT BA -ĐA trong một thời . Sáng thấy NGŨ-UẨN GIAI-KHÔNG , chỉ THỊ-CHỨNG Vạn-Pháp Pháp-Giới khổ-ách , liền ĐỘ tất cả KHỔ-ÁCH.
XÁ-LỢI-TỬ ! Nơi SẮC chớ nên bác bỏ dị Không, nơi KHÔNG chớ bác bỏ lại Sắc. Vì Sắc THỊ-CHỨNG nên mới Không, Thị-Chứng QUÂN-MINH đều là SẮC. Từ THỌ-TƯỞNG-HÀNH-THỨC, thảy đều nằm nơi THỊ-CHỨNG .
Xá Lợi Tử! Thị Chứng Pháp liền Không Tướng mà Giác Tướng. Nơi Giác Tướng nó Bất Sanh, Bất Diệt, Bất Cấu, Bất Tịnh, Bất Tăng, Bất Giảm; Thị cố tựa như không trung. Vào nơi Sắc, nơi Thọ Tưởng Hành Thức, cho đến vào Nhãn Nhỉ Tỉ Thiệt Thân Ý, Vào Sắc Thinh Hương Vị Xúc Pháp:Vào Nhãn là Giới, nãi chí vào Ý Thức đều Giới, cứ vào vô minh, vô minh diệt, vào vô minh cốt tận vô minh, có chí vào Lão hoặc Tử, chưa diệt Lảo hay Tử vẫn Tận, vào Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vào Trí diệt Trí, vào Đắc giải Đắc,tất cả không nên Cố Trụ. Bồ Đề Tát Đỏa Y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, Tâm vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố (Tâm đừng quái ngại, nếu quái ngại liền củng cố, bị vạn pháp khủng bố) Hãy dẹp mộng tưởng Niết Bàn, điên đảo cứu cánh Niết Bàn đến quân minh Thị Chứng. Pháp Giới chính Niết Bàn. Tam Thế Chư Phật Y BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA, Sở Đắc TAM-MIỆU TAM BỒ-ĐỀ.
Những bậc Cố Tri thực hiện Bát nhã Ba La Mật Đa, Thị Chứng Đại Thần Chú đến Đại Minh Chú vào Vô Thượng Chú liền Thị Chứng Đồng Đẳng Chú, trừ tất cả khổ, Lời chân thiết, không dối.
Lành thay! Lành thay! Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, là Cố Tri duyên lành, Cẩm Nang chỉ đạo quân minh cho các bậc tu hành thọ trì tận Giác.
Đến nay TA chỉ thẳng Cái Thấy Quân Minh đồng đẳng được gọi là Vô Thượng Đẳng. Tất cả các Bậc tu hành phải nương nơi Bát Nhã Ma Ha Ba La Mật Đa mới hoàn mỹ.
Khi các Bậc tu thân tâm chưa thoải mái, còn Nghi, còn Chấp, chính còn tu. Chớ nên, không còn chỗ Chấp mà Chấp Không, Chớ đừng không Chấp mãi đi nơi Kiến Dục Tăng Thượng.
Dưới mắt TA, Lý-Sự thường HỢP hay HÓA là Như-Nhiên vận- chuyển vạn-pháp Vũ-Trụ với Con-Người, hoặc giả Bổn-Lai Diện- Mục Như-Lai-Phật Hành Dụng. Các bậc lầm-lạc thường-trú, hay trụ Pháp-Giới, bị trụ là Nghiệp-Giới sa-đọa luân-hồi Pháp-Giới. Bằng nương nơi Pháp-Giới GIẢI-GIỚI tường-tận, không vướng- mắc, đó là con đường duy-nhất TU TRI-KIẾN GIẢI-THOÁT.
NAM MÔ PHÁP-TẠNG TỲ-KHEO. A-DI-ĐÀ-PHẬT
Kết-nạp, viết xong ngày 13.3 QUÍ-HỢI
( Tức ngày 25.4.1983)
ĐẠI LỄ ĐỨC TỊNH VƯƠNG PHẬT
Giao ẤN-TRUYỀN cho ĐỨC TĂNG-CHỦ
ẤN-CHỨNG
TỊNH-VƯƠNG
MỤC-LỤC
Bài thứ NHẤT : NHƯ-NHIÊN TRỰC-GIÁC.. 1
Bài thứ HAI : PHẨM-HẠNH DIỄN-TIẾN.. 7
Bài thứ BA : PHẬT-ĐẠO BỊ NGOẠI-LAI. 14
Bài thứ TƯ : PHẬT-ĐẠO ĐỐI VỚI GIÁO MÔN.. 21
Bài thứ SÁU : THUYẾT-MINH ĐỒNG-ỨNG.. 39
Bài thứ BẢY : THUYẾT-MINH ỨNG-HIỆN.. 47
Bài thứ TÁM : PHẬT-NGỮ-LUẬN.. 56
Bài thứ CHÍN: THẾ NÀO LÀ HOA PHÁP-TÁNH ?. 69
Bài thứ MƯỜI : DƯỚI MẮT THIỀN – SƯ: VẠN-PHÁP DIỄN-HÓA 77