PHÁP TẠNG PHẬT-GIÁO VIỆT-NAM
ĐỨC TĂNG-CHỦ
TỊNH-VƯƠNG NHẤT-TÔN
ẤN-TRUYỀN
BIỆT TÔN VÔ THƯỢNG ĐẲNG
GIÁO NGÔN TRỰC CHỈ
ẤN CHỈ V
TẬP III
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI MỐT :
TÂM TÌNH DIỄN TIẾN ĐẠO PHẬT
ĐẠO-PHẬT có Tâm-Tình duy-nhất, Tâm-Tình nầy rộng-rãi bao-la, thụ-hưởng từng lớp con người chung cùng khắp với Đạo-Phật, không phân-biệt bậc Thượng-Chí hay Hạ-Căn, tùy mỗi Vị tu-hành trong nền-tảng Đạo-Phật, nó không ngoài NHẤT-TÂM chuyên-trì đều kết-quả như-ý-nguyện.
Nơi diễn-tiến qua lại thăng-trầm, sự-lý tu-hành cố-gắng lướt qua thảy đều nhận chân tâm tình Đạo-Phật cao cả vô cùng không thể nào diễn-giải hết đặng. Không khác mấy với hư-không vô-tận dung-dưỡng tất cả Nhân-Sanh Tứ-Loài trong Vũ-Trụ, hay trận mưa Bảo-Pháp có từng giọt nước Cam-Lồ đượm thắm hàng-hàng lớp-lớp tất cả những bậc biết tu hoặc giả chưa biết tu đều trọn hưởng.
Con đường Tu Phật có một mạch-lạc Tối-Thượng duy-nhất, nhưng sự dẫn Đạo không bắt-buộc con-người phải tu Đạo-Phật, chỉ xây-dựng con người lành lẽ, cần cho những con người có Bộ-Óc Tự-Giác Giác-Tha, tự Bản-Năng mình thành-lập Quốc-Độ Tịnh-Độ cứu khổ chính mình. Đạo Phật không bao giờ dạy cho con-người Tu-Phật phải cổ võ là bậc cao-cống, nên chi trước khi vào tu Phật , Tín-Chủ phải Phát Bồ-Đề-Tâm, tự ý mình tín-tâm, sau lần-lượt tu học, đến trình-độ hiểu chân hành-lý của Đạo Phật.
Đạo-Phật với con-người. ĐỨC-PHẬT với Chúng Sanh, không bao giờ đề-án con-người là xấu hoặc giả hèn-hạ, đê-tiện hay độc-ác. Đạo Phật vốn công-nhận nơi con người có một THỂ- TÁNH đồng với Phật, chỉ lầm-mê mà thôi.
Khi con người có xảy ra sự giằng co, xâu-xé thù-hận nhau cho đó là NGHIỆP. Làm cho tất cả tự mình sửa-đổi NGHIỆP, đa-số các bậc tu-hành chính bản thân Giải-nghiệp cao quí tuyệt-tác thay lời Phật ấn chỉ trung-tâm bền-vững nơi Đạo-Phật, nơi Nghiệp là một tác-động đa phần giải nghiệp kết-quả sự chen-lấn được thanh-bình khá đông đáng kể.
Chân-Lý Giáo-Lý nhà Phật tu-hành phải thực hiện Lý-Chân mà Sở-Đắc Chân-Lý, bằng tu nơi Giả-Tượng suy-nghĩ xa-xuôi chưa giải nghiệp hiện-tại, vẫn tu-hành nuôi nghiệp không bao giờ chưa kiến-tri mà đặng Tri-Kiến Giải-Thoát. Đối với thế-gian, nếu tất cả loài người, mỗi con-người thường cải-hối sự lỗi-lầm của mình, thời có đâu phải tạo ra quá ư lầm lỗi, trong kiếp sống nơi con-người ? Do đó sự giải-nghiệp đối với đời vẫn đáng quí, còn đối với Đạo-Phật lại càng đặng tiến thân lành lẽ an-bài cao-đẹp thay, nên chi có câu :
Bậc biết lỗi, liền chừa lỗi. Còn kẻ chưa biết lỗi thường chạy lỗi, để làm thêm tội-lỗi.
Bậc biết Nghiệp, tự giải nghiệp, nghiệp nó biết mình, mình soi biết nó, liền kiến-tri mà giải- thoát.
Nghiệp là Cơ-Bản đứng yên bảo-thủ Cá-Nhân, tự thủ Cá-Tánh, tự-mãn buông-lung độc-chiếm lấy thân mạng mình đi trong Sanh-Tử, nó làm cho Nhân-Loại thiếu tình-thương, thiếu nhựa-sống , thù-hận bê-bát giữa con-người với nhân-thế muôn trùng gây-hấn, chính nghiệp nó là một vai-tuồng đổi thay từng hoàn cảnh, từng bước đi, nhịp-nhàng không bao giờ nó ngừng nghỉ, cho nên Nghiệp nó có từng GIỚI-NGHIỆP. Bậc có Trí-Hóa, có Đạo-Đức căn-bản, ra ngoài giới-nghiệp mới biết nghiệp. Bằng cố-thủ, tự-hào, tự-mãn còn ăn nằm trong giới của nó thì bị lỗi-lầm, chưa bao giờ biết đặng nghiệp, để tu giải nghiệp.
Sự chủ-động của Nghiệp là: NGHIỆP-THỨC, nghiệp-thức năng-chướng bị biến sanh nghi-ngờ đủ chiều-hướng, chưa giải nó trở thành Nghiệp-Căn, nghiệp-căn nó ảnh-hưởng nơi căn-tánh tập-khí và kiết-sử. Lúc nghiệp-thức biến đổi xoay vần mới phát hiện chỗ thương nơi ghét, chốn phải-quấy mà trưởng thành nơi tương-đối, tương đối đều là pháp hư-dối động-vọng phân-trách dị-biệt năng-phân trên con-đường Sanh-Tử lầm-lạc theo đó mà sanh-tử. Những bậc tu Phật giải nghiệp khó khăn hơn là dứt-nghiệp, hàng Nhị-Thừa tu-Phật giải nghiệp nhìn thấy nghiệp quá nhiều, liền sanh tâm dứt nghiệp kết-quả Tu-Chứng thành Tiên- Đạo, tiên-đạo hay tận-diệt căn-nghiệp về với hư-không. Còn hàng Bồ-Tát tu hạnh giải-nghiệp vì hàng Bồ-Tát chứng-tri thể-tánh vận-chuyển của Như-Lai-Tạng, nương nơi Như-Lai mà giác-ngộ thành-thử giải nghiệp sạch nghiệp rốt-ráo thành Phật, do đó nên chi Bồ-Tát không bao giờ diệt-nghiệp để tu-cầu.
Trên con đường Tu-Phật , chư Bồ-Tát thực-hành pháp-môn Phật-Thừa, chủ-quán Như-Lai, quán Như-Lai là một pháp-môn Phật-Pháp Bất-Ly Thế-Gian-Giác. Tâm qua tất-cả bối-cảnh nghịch-cảnh giải-nghiệp vướng-mắc thọ-chấp ngăn-ngại của bồ-tát, nhờ thường chủ quán mà thấy nghiệp, nghiệp di-chuyển ra vào, năng-chấp dị-phân nơi thân-mạng mình, cùng tất cả con-người quần-chúng nhân-sanh, cho nên miệng nơi mình vừa nói ra, thời kẻ kia bắt lấy, nghe qua tức giận hay vui mừng thỏa-mãn hoặc nghi chấp từ thế-nhân con người họ chỉ sống nơi chỗ sống chạy theo nghiệp hơn là tự sống quân-minh, do đó nên chư Bồ-Tát dẹp tất cả nhỏ-nhen liên-hệ khởi-sanh nghiệp, mà sống nơi sống sáng-soi nghiệp-thức tỏ-ngộ mà thôi.
Có Bồ-Tát thưa hỏi Phật : Bạch Thế-Tôn, con lầm-mê, càng tu càng thấy mê-lầm, con có giải nghiệp mới đặng thấy nghiệp mà giải. Bằng con cứ an nhiên, con không bao giờ thấy nghiệp. Đức Thế-Tôn Ngài hỏi? Ông thấy nó, ông lấy chi để mà thấy? Bồ Tát đáp. Con thấy lấy cái-thấy mà thấy. Ngài tươi cười nói: Cái Thấy đồng với thấy không bao giờ đặng thấy, chỉ ngoài cái thấy mới thấy mà thôi.
Bồ-Tát tán-thán : Hay thay cứu-tinh Phật-Đạo ! Con đang ở nơi nghiệp không bao giờ thấy nghiệp, con đang lầm-lạc chưa bao giờ tránh đặng lý-sự lạc-lầm. Con nằm yên chưa bao giờ nhận chân Phật-Đạo chứng-tri, con phải nương theo vết chân Bồ-Tát-Phật mới trưởng-thành Đạo-Phật, con thật biết hay con đã từng biết, sự diễn-tiến đạo-phật, con nên tiến từng giai- đoạn diễn-hành cốt tỏ-ngộ, nhận đặng tâm-tình CHƯ-PHẬT đã cứu-giúp con, tình nơi CHƯ-PHẬT chính là một mối tình Không-phương mà chúng con được cứu-trợ nâng-đỡ con từng bước tiến. Con đã từng tỏ rõ:
Nghiệp là tự con ngăn chận hoài mong cái sống chỗ sống tự-ngã do con, thế mà lúc con xã ra cho thật hết nghiệp lại tự mang lấy Cấu-Nghiệp nằm yên mong chờ Chân-Lý Giác-Ngộ. Con đã từng nghe, sạch-nghiệp mới DUNG-THÔNG tận thấy-biết mà Tri-Kiến, bằng chưa dung-thông thì chưa bao giờ sạch-nghiệp, Bồ-Tát tán-thán xong bái lễ, Đức Thế-Tôn gật đầu yên lặng chứng minh.
THẾ NÀO DUNG THÔNG ?
Bậc Tu-Phật dung-thông chính là những bậc đã biết tu. Bậc nầy đã từng nói: SỢ CHƯA BIẾT TU. CHỚ ĐỪNG SỢ CHƯA GIẢI-THOÁT. Bậc nầy lại thườngTâm Niệm. Tu- Phật không Tin-Phật, Tin-Pháp, Tin-Tăng cũng không bao giờ đến mà đặng. Bằng quá Tin , PHẬT-PHÁP-TĂNG trở thành mê tín.
Do đó nên : Tin Phật là Đấng Cha-Lành, Khai Hoang sự lầm-lạc mê-chấp nơi chúng-sanh, từ chỗ mê-tín trưởng-thành Chánh-Tín. Ngài là Bậc Chí-Tôn có đầy-đủ BI-CHÍ-DŨNG còn chính thân-tâm mạng sống nơi chúng-sanh chưa đầy-đủ Bi-Chí-Dũng để giải nghiệp, nay nên tin thực-hiện Bi-Chí-Dũng Tâm-Chí liền mở-mang Viên-Dung, Thông-Đạt thành Phật như Ngài.
Tin PHÁP, PHÁP chính lời KHAI-THỊ của PHẬT. Pháp-Phật là Pháp Tối-Thượng, vạch tỏ rõ ngọn-ngành từng lớp của Sinh-Chúng, nên nương nơi Pháp tỏ pháp mà Giác-Ngộ. Nếu đã tin Pháp phải Tin TĂNG . TĂNG là Vị thừa-hành đại-diện cho Phật-Pháp. Bậc Tăng có đầy đủ Công- Năng, Công-Đức bao dày, Tâm-Chí Hướng-Thượng Bao -Dung, được xưng-tán bậc Đại-Đức, Lý-Trí DUNG-HÒA được kính-ái , được tán-thán chỗ dung-hòa, gọi những Vị Tăng nầy là Hòa -Thượng.
Bậc TĂNG là bậc đã từng nương theo vết chân Chư Bồ-Tát Phật có đầy đủ TÂM-CHÍ duy-nhất gánh lấy trách-nhiệm toàn-thiện, đưa cho tất-cả Tín-Đồ đạo-chúng toàn-chân Giác-Ngộ, cho nên đời đời vẫn Tôn Kính bậc Tăng. Bậc Tăng là những bậc Giác-Ngộ, thường hóa-giải nghi chấp, dụng nơi tự-tánh Lý-Chân điều-hành trực-chỉ, không Man-Khai Tướng-Phật, chẳng xa lìa Thể-Tánh dạy-dỗ minh-thuyết viên-dung. Những bậc Tăng Chứng-Đạo trong-sạch Pháp-Giới , không còn Ngã và Ngã-Sở, do lẽ ấy nên bậc Tăng có phương-hướng làm cho tất cả Giác-Ngộ.
Nhìn đến Tâm-Tình duy-nhất của Đức BỔN-SƯ MÂU-NI-PHẬT , lại nên xét qua những cuộc diễn-tiến thăng-trầm do nơi Nghiệp-Thức của các Tín-Chúng Phiên-diễn mới Tỏ -Thông Đạo-Phật có sẵn mối CHÂN-TÌNH Bất Diệt của các Chư-Tổ thừa-hành kế vị làm Bậc Tăng Chỉ-Đạo.
Đức BỔN-SƯ là Vị-Phật đầu tiên trên quả Địa-Cầu, Ngài khai-sanh Đạo-Phật. Thuở thiếu thời Ngài có sẵn Địa-Vị làm Thái-Tử tên , Ngài là TẤT-ĐẠT-ĐA. Vị Thái-Tử như Ngài đã có sẵn Chí-Dũng bao dung , Thể-Tánh Ngài quảng-đại Tối-Thượng, Ngài tự-nghĩ Địa-Vị ngồi yên chưa hẳn là địa-vị nhân-cách, chỉ là địa-vị củng-cố thừa-hưởng mà thôi, do đó nên chi Địa-Vị Thái tử chưa đáp-ứng nguyện-vọng nơi Ngài, vì tất cả toàn dân đang sống nơi sự sống Sanh-Tử Bệnh-Lão-Khổ, Ngài đã nhìn thấy trong bốn cửa Thành. Từ Thể-Tánh Ngài từ nơi bản-năng toàn-thiện, toàn-năng thương mến làm cho Ngài lìa bỏ cung vàng Địa-Vị Thái-Tử ra đi tu cầu đến Tu-Đạt Quả-Vị Chánh-Giác.
Từ mỗi một bước tiến của Đức Bổn-Sư trải qua, từ nơi tâm-trạng diễn-hành Nghiệp-Thức linh-động thao diễn Ngài quá ư tường-tận, Ngài ghi-chép dạy-dỗ nung-đúc cho những vị thừa-kế mà tu-hành, chẳng khác nào một cái khuôn đổ ra hằng ngàn cốt Tượng. Đối với con đường Tu-Phật. Bậc nào ra đời xuất-chúng cũng phải Tu, có tu mới thấu-đáo con đường tu mà Sở-Chứng hoàn-mỹ Ba-Thân Viên-Mãn. Khi Đức Bổn-Sư Ngài Đắc-Đạo Vô-Thượng là một chứng từ Quả-Vị. Ngài phải trãi qua 49 năm thuyết-pháp Độ-Sanh, nhiếp-thâu cùng bổ-sung những điều Ngài chưa tận-tường chu-đáo, đến giai-đoạn chu-đáo vẹn-toàn hoàn-mỹ, hoàn-tất Ba-Thân Viên-Mãn Vô-Thượng Chánh-Giác Ngài nhập Bát-Đại Niết-Bàn. Từ các bậc tu hành đến Chư Tổ, buổi ban sơ đắc-đạo, phải thực-hành nơi Sở-Đắc của mình gọi là Thực-Hành Bổn-Nguyện chung, thừa-kế làm Chư-Tổ, hướng-dẫn tất-cả tu-hành Ngài luôn luôn xem-xét lần đưa cho Tín-Chúng giải-nghiệp. Chính TỔ vẫn kiểm-soát thân-mạng mình để hóa-giải không ngừng nghỉ. Đến giai-đoạn Chư-Tổ tận-thấu Duyên-Căn, Tận-Thành Phật-Pháp Ngài mới yên-lặng phát-minh lời Minh-Thuyết.
Con đường duy-nhất các Bậc thảy đều bước qua không thể nào tránh được. Từ Đức Bổn- Sư thành-Phật, Đến hàng Bồ-Tát nương theo qua từng cơn giải-nghiệp, qua từng lý-trí sáng-soi, qua từng giai-đoạn giải-tỏa, nó càng nhịp-nhàng bao nhiêu thì Tâm-Tình Đạo-Phật, giữa Đức Chí-Tôn cùng Chư-Tổ lại càng giao-cảm bấy nhiêu. Có như thế nên chi các bậc không bao giờ củng cố Quả-Vị, Vì sao? Vì Địa-Vị hay Quả-Vị củng-cố đều đứng vào hàng hư-vị danh- giả, nên chi mới Công-Dụng LÝ-TRÍ DUNG-THÔNG ĐƯƠNG-NHIÊN QUẢ-VỊ. Nhờ nơi lý-trí dung- thông là do xa-lìa NGÃ cùng NGÃ-SỞ, nhờ xa-lìa Ngã mà chẳng bao giờ có Tự-Ngã Tự-Tôn kết-quả không Man-Khai Tướng-Phật chỉ Thể-Tánh đồng-đẳng chung cùng với Phật mà thôi.
Thật cao quí thay! Đức PHẬT CHÍ-TÔN khai-nguyên Đạo-Phật, Ngài thành đạt Chân-Lý rốt-ráo mà thôi. Ngài tận-tường không thiếu-sót , căn-dặn đủ phương-thức lưu lại cho các bậc tu-hành sở-đắc chân-lý tận-dụng Lý-Chân thực-tiễn rốt-ráo như Ngài hoàn-toàn giải-thoát.
THẾ NÀO LÀ RỐT-RÁO – THÀNH-TỰU CHÂN-LÝ ?
Chân-Lý có sẵn như Cát Sông-Hằng, như hạt bụi vi-trần chung khắp Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới Rồng-Người cho đến Tam-Thế-Phật, Quốc-Độ Tịnh-Độ, gọi chung đều nằm nơi PHÁP- THÂN-PHẬT, hay có ý nghĩa vận-chuyển, gọi đó là NHƯ-LAI-TẠNG.
Trên con đường Tu-Phật sự diễn-tiến có nhiều quan-điểm bất-ngờ, lúc đang bước vào con đường tu-Phật có một quan-niệm, trải qua con đường tu-hành thì quan-niệm trước nó không còn nữa, chiều hướng định-hướng khác nhau, cho đến lúc thâu-nhận được Phật-Pháp để tu, chỉ hiểu- biết mình tu, chớ chưa bao giờ định-hướng được chính mình đang tu những gì căn bản. Đến thời-gian do Công-Năng kiến-tạo đủ trình-độ nhận-lãnh Phật-Pháp đặng tu, thời đột-nhiên Sở-Đắc Chân-Lý. Từ nơi Sở-Đắc Chân-Lý mới nhận được Chân-Lý mà tu.
Bậc Tu Phật Sở-Đắc Chân-Lý đến giai-đoạn rốt-ráo thành-tựu Chân-Lý là một vấn-đề khó-khăn vô kể, bước tiến phải thực-hành Bát-Nhã tu bát-nhã cốt đạt đến bát-nhã-trí. Bát-Nhã-Trí vốn là Thể-Tánh Như-Lai chung khắp trang-nghiêm Bất Nhị mới không Man-Khai Tướng-Phật. Bằng sở-đắc Chân-Lý vội tự-mãn chấp-nhận Chân-Lý là nơi Trụ-xứ phải lâm vào Tướng-Phật Man-Khai. Phật không có Tướng, CHÁNH-GIÁC là TƯỚNG-PHẬT.
Rốt-ráo Chân-Lý quản-lý bao quảng, điều-hành tất cả Chân-Lý. Từ nơi vận-chuyển Như-Lai Chân-Lý, đến Bá-Thiên vạn-ức triệu, hằng-hà sa-số, vô-lượng vô-biên chân-lý đến khởi-sanh, khởi-diệt, khởi-cấu, khởi-tịnh, Tăng hay Giảm cùng với các Pháp-Giới Vãng-Lai Bất-Tịnh hoặc giả Như-Tịnh Giác-Tịnh, nó có Sắc,hay không Sắc, nó có hương-vị hay không Hương-Vị-Xúc-Pháp hoặc liền-lạc không xúc-pháp, đều rành-mạch tận-tường rốt-ráo thành-tựu chân-lý, tất cả đều an-lành Chánh-Giác.
Bậc Chánh-Giác trong sáng lành-lẽ, lời vàng chân-lý từ Kim-Thân phát-hiện, tất-cả chư Bồ-Tát mỗi bậc lãnh lấy Chân-Lý mà tu-hành thời-gian sở-đắc Chân-Lý ra làm một Vị Tổ thừa kế chỉ-giáo. Các hàng Chư-Thiên, Chư Tiên, Chư-Thần, chư Long-Thần, đồng với chư Hộ-Pháp đến Hộ-Pháp Bồ-Tát, nghe đặng mỗi một lời nói, lời nói ấy lãnh hội đặng hay không do lòng cung kính Phật mà thọ-trì lãnh lấy liền Sở-Đắc pháp Chân-Lý, hoặc giả tiếp-nhận một hơi thở hay nhìn đặng ngón tay hay một ngón chân Phật đang bước nhẹ-nhàng thoải-mái để lãnh lấy Chân-Lý, với hàng Chư-Thiên, Chư -Tiên, Chư Hộ-Pháp, Hộ-Pháp Bồ-Tát, Ma-Ha-Tát, tận-tường chu-đáo rốt-ráo Chánh-Giác Thành Phật.
Lạ thay ! Chân-Lý sẵn có tựa Cát Sông-Hằng, tất cả chúng-sanh Tín-Tâm cầu đạo Vô-Thượng, cầu lấy Chân-Lý Đức-Phật đã từng nói ra toàn nguồn Chân-Lý. Thế mà chúng-sanh chưa nhận được Chân-Lý, chỉ nghe hiểu Chân-Lý mà thôi, vì sao chúng sanh nghe hiểu đặng Chân-Lý, chớ chưa nhận đặng Chân-Lý. Nếu nó nhận được Chân-Lý chỉ một mảnh lông cừu thì nó liền Sở-Đắc Chân-Lý.
Chúng-Sanh THỂ-TÁNH ĐỒNG-ĐẲNG với Chư-Phật, do sự đồng-đẳng NGHE-THẤY mà chúng-sanh nó hiểu Chân-Lý, nó vẫn thích-thú Chân-Lý, xong đâu đó nó chưa biết sử-dụng lại vứt chân-lý đi, lại đi tìm Chân -Lý. Khi nó chịu khó, chịu tu, nó vật, nó vã, nó thả, nó bắt, nó bị mắc, nó phải gỡ, nó tu thăng-trầm than-thở, đến giai-đoạn nó tự mở. Khi bấy giờ nó mới bắt đầu nhận chân-lý mà tu-hành Giải-Thoát vậy.
NAM MÔ THƯỜNG TINH-TẤN BỒ-TÁT
TỊNH-VƯƠNG NHẤT-TÔN
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI HAI:
DƯỚI MẮT THIỀN SƯ. VÒNG ĐAI PHÁP GIỚI
THIỀN-SƯ đang ngồi trên chiếc chỏng-tre, đôi mắt nhìn ra khu rừng đầy cây-cối. Buổi sáng hôm nay Ngài tỉnh táo mặt tươi nhuận, in tuồng nghĩ ngợi hân-hoan những gì nơi Ngài mà Ngài sắp nói, chỉ lẩm-bẩm nơi miệng còn Tám hôm đến ngày Sinh-Nhật gần Mười Bốn ngày Tết Nguyên-Đán đầu xuân, ta thực dụng đã Sáu-Mươi-Bảy năm nhanh chóng thật.
Thiền-Sư mang đôi hài, bước khỏi chỏng tre, ngồi vào chiếc ghế, bẻ cành củi khô, viết dưới mặt đất: Phật nói Phật nghe. Chúng Sanh chỉ nghe, chúng sanh lại tự ý nói. Thiền-Sư viết xong cười xòa, Ngài tiếp: Chưa bao giờ chúng-sanh lãnh-hội đặng lời Phật nói, vì chúng sanh quan-điểm, Phật nói đều là lời Phật-Giới, Chúng-Sanh đang nghe chỗ nghe kia đều là nơi nghe Giới-Sanh, làm thế nào nhận-lãnh để nghe lời Phật nói?
Lạ thay ! Đối với Phật Ngài luôn-luôn giải giới bởi chúng-sanh giới lầm-mê, do đó mới hoá-giải mọi bề, trái lại chúng-sanh thêm mê mọi cách, cho nên thường nhiễm dơ-sạch sạch-dơ, tốt sanh xấu diệt, do đó Phật tận-thấu từng cơn, cho đến chừng nào trơn liền mới cảm thông lời Phật nói.
Khó-khăn thay cho sự lầm-mê vòng-đai pháp-giới, di-chuyển linh-động làm sinh-chúng nhiều kiếp Thọ-Sanh, đối với thân-mạng Ta phải lên xuống thăng-trầm mới tận-tường pháp-giới tỉ-mỉ Diện-Mục bổn-lai từng lớp-lớp. Nhiều khi Ta nghĩ lại, nhiều lúc phải phân-vân, chúng sanh nó tuy gần, nhưng tuyệt-tình xa vời-vợi, Ta không còn nói năng hay chờ đợi. Tận-Dụng THỂ-CHÂN phát-hành BIỆT-TÔN VÔ THƯỢNG-ĐẲNG, chính tình lời chỉ thẳng trực-chỉ tận Giáo-Ngôn mong mang đến chốn trường-tồn để tri- ân Tam-Thế-Phật. Thiền-Sư nói đến đây, Ngài nhìn vùng mây trải, nhìn lại lá vàng rơi, nhìn đời sau tận-thế, Ngài bèn vỗ-vế đứng dậy xoa tay, châu mày nghĩ-ngợi, Ngài đến chiếc chỏng nằm dài chưa dám nói.
Bỗng bên ngoài con Bướm bay thẳng vào nhà, bướm chưa biết lối ra, còn đang bay qua bay lại. Thiền-Sư nhìn nó, nở nụ cười tươi, Ngài nói: Nầy bướm, chính mầy là Pháp Giới, mầy có giới hai cánh-bay. Có giới đôi lông mày, sáu chân mày đều là giới Bổn-Lai Diện-Mục bay lên đáp xuống, thực-dụng những Mật-Hoa. Vì kiếp Mi đậm-đà xinh-xắn, do hoa nở sinh, Ngài đứng lên cầm chiếc quạt giấy, đưa Bướm bay bổng ra ngoài.
Đối với Thiền-Sư Ngài thường nghĩ về vấn-đề Pháp-Giới. Ngài bước đi trên Thảm-cỏ xanh, nhìn hai bàn chân của Ngài đã có sẵn từng giới cùng với thị-danh nào là thị-danh ngón-cái, ngón giữa, cùng ngón-út, bàn chân, ngón chân, mỗi mỗi đều là giới cùng thị- danh cả. Ngài nhớ lại Kim-Cang-Kinh, lời dạy của Như-Lai. Nó chẳng phải là: Thế-Giới, nhưng Thị Danh Thế-Giới, Ngài so lại: Nó chẳng phải là: Ngón tay ngón chân Đầu cổ tai-họng, nhưng Thị-Danh nơi nó là ngón tay, ngón chân đầu cổ tai-họng. Bướm kia nó cũng đầy-đủ Giới, cũng vẫn có Thị-Danh.
Thật hay thay cho Thị-Danh Danh-Giả để cho Nhân Sinh Tứ-Loài nương nơi đó mà giao- cảm nhau trong một nước con người với con người đồng hiểu-biết từ-ngữ ngôn- ngữ nhau. Đứng nơi Thị-Danh Pháp-Giới thời từ hoàn-cầu Thế-Giới nó có quyết-định như nhau, tuy vốn thị-danh nhưng thị-danh chung kết đều GIỚI . Đến giai đoạn Tỏ-Giới thời nhận chân là : Nó chẳng phải Pháp-Giới, Thị-Danh là Pháp-Giới, chính thật Pháp- Giới. Cũng như nó chẳng phải là Thế-Giới, nhưng thị-danh Thế-Giới, thật là Thế-Giới.
Pháp-Giới là một Vòng-Đai duy-nhất chung tất cả Nhân-Sinh Tứ-Loài hoàn-toàn bao vây trong sanh-tử không ngoài một ai khỏi bị vòng-đai Pháp-Giới. Chỉ có BẬC VÔ- THƯỢNG- ĐẲNG CHÁNH-GIÁC mới làm chủ-động Pháp-Giới mà thôi . Có bị vòng- đai như thế mới có làm chúng-sanh-giới, đã chúng-sanh-giới là Mê chưa hẳn đã ngộ, bằng còn một GIỚI chưa giải quyết xong vẫn lâm nơi qui-chế Phật-Giới.
Thiền-Sư đã qua từng khúc eo Pháp-Giới, Từ nơi Tâm-Chí quán-chúng của Ngài. TẠNG- THỨC sáng soi Ý-THỨC, trưởng-thành Pháp-Giới, do ý-thức cố-thủ nên gọi nó là Nghiệp-Thức, bằng Ý- Thức không thủ thời Như-Nhiên Vạn-Pháp diễn-hành từ Pháp nầy đến Pháp kia, chẳng có chi gọi là Pháp-Giới. Trường-hợp nầy Thiền-Sư đã từng trải qua, chỉ vì nương nhờ TÂM-CHÍ mà soi tỏ đặng bằng chưa đến mức-độ công-dụng Tâm- Chí thì chưa bao giờ tỏ rõ Pháp-Giới cùng Nghiệp do đâu mà phát sanh.
Vì sao ? Vì đa số, cho đến những bậc tu đại tín thành, chưa có CHÍ DŨNG thời toàn nương nơi TÂM-THỨC để tu.
Thiền-Sư nói : TÂM-THỨC và Tâm-Chí nó chỉ một Thể mà hai lối dụng khác nhau. Tâm-Thức nó theo thức chuyển hình thành được gọi là TÂM-PHÁP chung một, thành thử tỏ pháp liền tỏ tâm, tâm không ngoài pháp. Nhưng Tâm kia bậc tu-hành chưa có CHÍ DŨNG trải qua các pháp thì làm sao tỏ pháp cùng tâm? Bậc được dùng TẠNG- THỨC để soi NGHIỆP-THỨC chính là những bậc sẵn có CHÍ-DŨNG, Chí-Dũng nương nhờ CÔNG-ĐỨC mà có , chưa có Công-Đức chưa phát sanh Chí-Dũng.
Thiền-Sư nghĩ lại : Vạn-Pháp như huyễn, lướt qua khỏi nhìn lại mới nhận chân nơi huyễn của nó. Bằng đứng yên làm sao Kiến-Tri cho đến chỗ Huyễn thành CHÂN ? Thiền-Sư rất cần bổ-sung những điểm chi thiếu-khuyết trên bước đường tu hơn là tu- cầu tiến-thân trong quả-vị . Vì sao ? – Vì chưa BI-CHÍ-DŨNG, chưa TÍN-HẠNH- NGUYỆN thời làm thế nào, kết-quả đặng chỗ CHÁNH-TÍN CHÂN-TÔN hay Đạo-Hạnh cao-dày chỉnh-trang Tịnh-Độ ? Nếu chưa NGUYỆN thời làm như thế nào thu-đạt toàn- năng trọn-thành BA-THÂN VIÊN-MÃN ?
Thiền-Sư rất biết thật biết. Trí Bát-Nhã Viên-Dung, trên con đường tu-hành nghiêm- túc là một điều tối quan-hệ cho tất cả những vị Đại-Chí Đại-Bi nương nơi Đại-Nguyện mới thâu-đạt phá vỡ Vòng-Đai Pháp-Giới. Bằng tu yên chờ đợi, tu lợi riêng mình, lặng thinh Tịnh-Nghiệp ra vào chưa biết, cầu miết chẳng thông, chưa đồng bao giờ kết-quả.
Vì sao nó như thế? Vì Pháp-Giới duy-nhất có một từ-ngữ chung gồm bao-phủ lầm mê. Nhưng lại có Ba lối phát-hiện Pháp-Giới. Tu-Đạt chung khắp gọi là BA-THÂN VIÊN- MÃN , bằng sai-lệch thì khó-khăn trở về Chánh-Giác, Bậc tu rất cần nhiếp-thâu Ba-Lối là như thế.
THẾ NÀO LÀ BA LỐI NHIẾP THÂU ?
– Một là : TƯỞNG-TƯỞNG Phát-Hiện Pháp-Giới.
– Hai là: HÀNH-ĐỘNG THUẬN-NGHỊCH Pháp-Giới.
– Ba là : NGUYÊN TƯỚNG BẤT-DIỆT Pháp-Giới.
NGUYÊN-TƯỚNG PHÁP-GIỚI là hiện-tướng Sơn-Hà, Đại-Địa .Tứ-Loài cho đến Cảnh-Giới các cõi Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới hoàn-cầu , nói chung HỮU-SẮC HỮU-GIỚI, HỮU-NGÔN HỮU-GIỚI, HỮU-TƯỞNG HỮU-GIỚI , gọi là NGUYÊN- TƯỚNG PHÁP-THÂN BẤT-DIỆT.
Về TƯỞNG-TƯỞNG phát-hiện Pháp-Giới, khởi-điểm là Tư-Tưởng nhận-định thấy tư- tưởng, khi hiện-tưởng liền thấy biết hiện-tưởng, lúc quán-chúng cùng khắp liền tỏ thấy quán chúng, Nó có nhiều viễn tượng lành-mạnh tối-sáng nên nó là THỰC-TƯỚNG VÔ- TƯỚNG TAM-MUỘI chưa khẳng-định minh-sát, chỗ Có và nơi Không phải tu hành nơi pháp môn Tam-Muội.
Tư-Tưởng Thể-Tánh nơi nó khởi-sanh, khởi-diệt, khi chẳng còn sanh-diệt, diệt-sanh qua từng giai-đoạn thì nó là THƯỜNG-TƯỞNG. Lúc chuyên-chú để soi nó lại được gọi là ĐỊNH-TƯỞNG. Bằng tìm-tòi Chân-Lý, tìm hiểu Lý-Chân, tìm gần đủ cách, cho nó thị-danh Tiềm-Thức, phân-biệt từng môn, từng lớp lang lớn-nhỏ gọi đó là Ý-THỨC năng-phân. Bao-Quản tỏ-thấu từng phần chẳng cân nặng nhẹ gọi đó là Tạng-Thức, hợp- tánh Như-Lai để phơi-bày pháp-giới gọi đó là NHƯ-LAI NHÃN-TẠNG.
Tư-Tưởng Pháp-Giới , từ thế-gian đến xuất- thế-gian. Từ Chư-Phật Chánh-Giác cho đến chúng sanh lầm-mê tu-cầu chánh-giác gọi là Vòng-Đai TAM-THẾ, đường lối Phật với chúng-sanh thành Phật.
Lại có TAM-GIỚI chư-Thiên trở thành TAM -THIÊN Đại-THIÊN thế-giới cho đến Rồng-Người. Mười tám Cõi Trời quản-lý Thế-Gian . Mỗi Giới , mỗi Cõi nói chung đều là TƯ-TƯỞNG, về Chánh-Báo Thọ-Báo bất đồng nên cao-thấp khác nhau về Lý-Tưởng mà thụ-sanh lớp-lớp không ngoài trong NHƯ-LAI- TẠNG-GIỚI.
Thiền-Sư, Ngài nghĩ đến đây lặng thinh, hai tay nâng lấy chiếc đầu, tóc Ngài đã trở thành trắng nhiều, đen ít lâm râm giữa TAM-THẾ. Chúng Sanh và Phật lần tiến, Ngài thở một hơi dài như tiếp nối hư không vô tận. Thiền-Sư nhìn lên nói : Bậc Tu-Đạt Ba Thân Viên-Mãn Chánh-Giác , nhìn lại quảng đường dài đã trãi qua rất tường-tận chu- đáo, tuy nhiên như thế mà vốn nó có mạch-lạc thụ-sanh cùng thoát-sanh ra từng thứ bậc Chánh-Báo cùng Thọ-Báo chẳng sai chạy tí nào mảy may nào dư thiếu. Còn bậc đang tu thời chưa biết mình tu những gì để mà tu . Thật khó-khăn thay nơi MÊ chỗ GIÁC !
ĐỨC VÔ-THƯỢNG Ngài đã trải qua, dạy cho Tứ Chúng rất tỉ-mỉ, từ khởi-điểm đến tận cùng không thiếu-sót nơi Tam-Tạng Kinh-Điển. Mỗi bước đi đều nâng-đỡ , một niệm khởi sai đều có lối về, đến tận-cùng ba-thân vọng-tưởng đảo-điên , mộng-tưởng Niết-Bàn Ngài thảy đều nói trong 62 kiến-chấp , thế mà vẫn lộn vòng nơi Pháp-Giới, vẫn Thọ-Ngã ở bản-năng, vẫn đắm say nơi Sắc-Tướng Giả-Tưởng, rất hiếm bậc căn-bản tu- đạt tận-thấu Pháp-Thân có Ba Lối nhiếp-thâu Chánh-Giác.
Lúc bấy giờ Thiền-Sư . Đắn-đo chưa muốn nói, dù Ngài nói ra nó chẳng dư, không thiếu của lời Đức Chí-Tôn đã từng diễn-giải nghìn xưa. Nay Ngài tuyên đọc lại với một chân- lý chung gồm mà lời biện-minh hơi khác của thời-cơ Ngài đương nói, để khai-hoang mở lối TAM-THÂN TỨ-TRÍ hộp-hòa Chánh-Giác.
Thiền-Sư an-nhiên nói : Thật khéo thay ! Khó khăn thay cho con đường giải-thoát viên- mãn Ba-Thân, nó phải kết-hợp đầy-đủ các Giáo-Môn, mỗi pháp môn đều có trợ giúp vào con đường viên-mãn, chớ chưa hẳn mỗi một pháp-môn Tu-Thiền mà Liễu-Thông Tận-Giác. Bằng không tu thiền thời chưa đắc-đạo. Tọa-Thiền chứng-tri đắc-đạo, tận- tường pháp-giới thâm-nhập viên-thông, Môn Thiền chủ-động bấy nhiêu thôi. Nực cười thay, cho kẻ tu Thiền đòi phải thấy, cái-thấy nơi thấy của kẻ tầm-thường như thấy Trời- Phật-Tiên-Thánh, thấy những gì mà điên-đảo đảo-điên vọng khởi để mà thấy, chớ nào có chủ-tâm cho mình thấy Nghiệp, cho tỏ đặng Tâm, cho khỏi sai-lầm mắc vào Pháp- giới, mới thật cái-Chánh Kiến-Tri mà đặng Tri-Kiến.
Đối với Thiền-Sư đã từng trải qua, những gì Chư Bồ-Tát đã làm, Thiền-Sư vẫn tu để làm, những gì chư Phật đã đi qua, nay Thiền-Sư nương nơi đó để đặng đi. Ngài nói đến đây trầm ngâm lặng-lẽ, sau liền nói tiếp, Thiền-Sư nhắc-lại : Phần trên Ngài đã phân-tách một Thể mà hai Dụng, hai lối tu hành khác nhau như : Tâm Thức và Tâm Chí cùng một Thể, nhưng những bậc tu hành dùng, thường tiêu cực tu cầu hơn là dụng TÂM-CHÍ tu đạt Giải-Thoát. Vì sao? Vì Tâm-Thức thuộc về SẮC-PHÁP chiêm-ngưỡng. Sắc- Tướng tác dụng Chánh-Báo Nhân-Thiên. Ngoài ra nhìn thấy toàn-diện hoàn-cảnh an- nhiên thanh-tịnh qua hoàn-cảnh, chưa nhận chân , là Pháp-Giới, hóa-giải pháp-giới từng cơn liễu-ngộ, đến cuối cùng, bậc Tín Tâm tu-tập phải qua pháp-giới Cõi-Trời Sắc- Cứu-Cánh, lìa Sắc-Tướng về nơi Như-Tướng mà Giải-Thoát, hai nữa sau khi tuổi thọ lâm chung phải Tưởng-Niệm, hoặc không Tưởng-Niệm mà vào Chánh-Báo Hữu-Dư Niết-Bàn hay Vô-Dư Niết-Bàn chưa vẹn Tam-Thân Viên-Mãn Tu-Phật trong lúc đang tu, rất quan-hệ khởi-điểm như thế nào, đến kết-chung toại-nguyện như thế ấy, đó là thường.
Còn về TÂM-CHÍ để tu cầu, thì Tâm kia phải có CHÍ , đương nhiên HUỆ nọ phải có ĐỊNH . Định-Tuệ tức là CHÍ-TÂM cho nên Đức Chí-Tôn Ngài nói : CHÍ-TÂM QUI MẠNG LỄ , phải chăng có Chí cùng Nhất-Tâm Đảnh Lễ.
Cao đẹp thay những Vị biết sử-dụng Chí Tâm để tu cầu Giải-Thoát , vì sao? Vì Tâm-Chí nó trực-thuộc về TẠNG-THỨC tu gần Như-Lai-Tạng, mới thám-sát đặng Pháp-Giới đảm-phá vô-minh . Còn TÂM-THỨC là lòng tu theo ưa-thích pháp-giới hơn là Tự-Tánh giải giới.
Thiền-Sư Ngài nói đến đây lắc đầu suy tính Đạo-Phật chủ-yếu các bậc tu-hành phải tự phát tâm CHÍ-DŨNG mới thọ-trì bảo-pháp tỏ rõ lối tu mà lướt qua từng pháp-giới thâm nhập khỏi chốn lầm mê, chớ tu nơi ngưỡng-vọng làm sao tỏ-pháp? Mấy ai đã từng biết, Chính Thiền-Sư vẫn chưa ngờ, CHÍ-DŨNG Tâm mới THÔNG, Tu nơi TẠNG-THỨC Tâm đặng bao-dung, CHÍ nương nơi hướng-thượng nhờ như thế nên Chánh-Báo thọ- hưởng trong Tam-Thiên, Đại-Thiên thế-giới tùy theo thứ bậc mà thọ-lãnh cảnh-giới, hơn là ý-thức thọ-báo eo-hẹp nhỏ-nhen chịu nơi Pháp-Giới Thọ-sanh trong vòng sanh- tử.
Nên Bồ-Tát Hạnh-Nguyện giải giới hơn thọ-giới chấp mê, nó chẳng đến mà đến trường- tồn bất-diệt. Bồ-Tát tu cầu Tạng-Thức mới quán Như-Lai , nương nhờ Tạng-Thức Nhãn-Tạng lần tiến mức tu, gọi là vào dòng Như-Lai hành-sự sạch lý thoát khỏi vô- minh, thâm-nhập nơi Như-Lai-Tạng mà rốt-ráo gọi là Như-Lai CHÁNH-GIÁC. Phần nầy là phần TƯỞNG-TƯỞNG phát hiện Pháp-Giới, gọi là Thứ Một của Trí-Tuệ lầm mê.
Phần Hai về : HÀNH-ĐỘNG Thuận-Nghịch Pháp-Giới vẫn có tầm quan-trọng, không kém phần Tưởng-Tưởng Pháp-Giới Tạng-Thức sáng soi, các ông nên chủ ý.
HÀNH-ĐỘNG, chính là phần Chánh-Báo nó có phần quan-trọng hơn Tạng-Thức, mỗi một khi hành-động sai-biệt với quả-vị tu-chứng trình-độ hiểu biết nơi mình thấp kém làm cho Chúng-Sanh đánh giá-trị nơi mình thời đương nhiên chính mình làm tổn- thương cho mình chớ chẳng ai hại mình cả. Hành-Động tiêu-biểu cho giai cấp thứ-bậc như Tiên-Thần-Thánh, cho đến những bậc Quân-Tử Vĩ-Nhân , cùng với viên-chức, giáo- chức. Mỗi thứ bậc đều có một hành-động tư-cách Thiên-Cách Nhân-Cách khác nhau, cho đến Loài-Quỷ loài Quái, loài yêu-tinh mỗi giống đều có hành-động nơi nó không sai chạy.
Những bậc tu-hành đã từng thành-tựu Tạng-Thức hóa-giải Pháp-Giới, lại tự mang vào mình Pháp-Giới mà chẳng hay biết đa phần do hành-động bất-cẩn mà phát-sanh thuận- nghịch Pháp-Giới , lòng mình nhất-tâm giúp-đỡ cho chúng-sanh tứ-loài mà hành-động mình lại tạo Pháp-Giới cho những người mình giúp sanh sân-hận đó là một câu chuyện đáng kể. Có những bậc thuyết-minh như lời Phật nói, nhưng hành-động ngôn-ngữ bừa-bãi thì khó tu-đạt đến Ba-Thân Viên-Mãn. Lại có bậc thông-đạt Phật-Pháp trải qua nhiều Pháp-Giới đã từng nhiếp-thu , nhưng lúc bản-tâm Tâm-Chí sáng soi thấy chính mình chưa hoàn-toàn giải-thoát , đang còn lẩn-quẩn niết-bàn chưa ngã ngũ thực-chứng đó chính là Tánh-Tướng chưa đồng. Tạng-Thức cùng Đạo-Hạnh chưa hộp-hóa làm sao chứng-tri nơi thành-đạt?
Đức THẾ-TÔN Ngài thật biết. ĐỨC-TRÍ phải ĐỒNG TƯỚNG-TÁNH TƯƠNG-SONG, ĐẠO-HẠNH ĐỒNG-NHẤT là một con đường kết-quả BÁT-ĐẠI . Bằng Đạo-Hạnh chưa thành dù cho có Giác chăng vẫn lai-sanh theo hành-động mà Chánh-Báo. Có những bậc tập-quán quen thuộc hành-động theo Quỉ-Quái làm toàn là nghịch-hành với mọi người, phải bị lai-sanh làm Phật-Quỉ. Phật-Tiên vì củng-cố hành-động. Phật-Thánh vì cương- lĩnh oai-hùng. Do sự-việc hành-động nên mới có tất cả các Cõi, các Cảnh-Giới đều có hiện-thân Phật mà thuyết-pháp . Rất hiếm bậc tu-đạt Ba-Thân Vô-Thượng Chánh-Giác.
Hành-Động là một biểu-tượng quá-khứ tiền-kiếp gần nhất, hiện kiếp nầy lai-sanh. Nó cũng ảnh hưởng do tập-nhiễm của tánh-tình nhiễm trước chung-quanh bè bạn giòng họ mà ra Bậc tu-hành chuyên-chính quán-sát thật biết trên con đường tiến bộ tu cầu của mình có hai điều đáng kể nhất cần phải thực-hiện. Thế nào là hai điều đáng kể ? Một là Hóa-Giải Pháp-Giới cốt tường-tận Pháp-Giới là điều đáng kể. Hai nữa là Hành-Động làm cho những người chung-quanh mình cảm mến, tán thán cốt thực hiện Thuận Hành để Nhiếp Thu Pháp Giới đó chính là điều đáng kể. Từ nơi khởi điểm thật biết hai điều đáng kể, nên chi bậc tu hành chuyên chính mới Chứng-Tri VÔ-SANH PHÁP-NHẪN mà thực-hiện Nhiếp-Thu Pháp-Giới tận-tường Pháp-Giới nơi Pháp-Môn Vô-Sanh Pháp- Giới. Vô-Diệt Pháp-Giới, đặng tường-tận Pháp-Giới. Nếu tường-tận Pháp-Giới mới thấu-đạt đặng BỔN-LAI DIỆN-MỤC Pháp-Giới mà Tận-Giác Tam-Thân tận thành Viên-Mãn.
Sự trọng yếu của phần hai, lối hai nầy đáng kể nơi trọng-trách thành-đạt, nên Phật dạy phải thực-hành TỨ-NHIẾP-PHÁP, phải Đồng-Hành và Đồng-Sự nhiếp giữa các bậc cùng chúng-sanh, cốt hoàn-toàn không thiếu-sót mà Viên-Mãn. Có Đồng-Hành-Nhiếp, có Đồng-Sự-Nhiếp, có thực-hành nguyện cùng Hạnh-Nguyện mới chu-đáo Hiện NHẤT- THIẾT SẮC-THÂN trên bước đường Hành-Động.
Thiền-Sư Ngài suy-tính đến đây Ngài thở dài, miệng lẩm-bẩm: Lạ thay, tác-tệ thay cho quan-niệm lầm lạc của chúng-sanh. Ta nói đến Tứ-Nhiếp-Pháp Lục-Ba-La Mật-Đa thì họ chẳng nghe đặng tý nào. Vì danh từ nầy họ đã từng đọc, từng biết, họ đều quan-điểm tầm thường quen thuộc. Đúng nơi lý-trí của họ, nếu bậc tu đào sâu thực-hiện Tứ-Nhiếp- Pháp, khi thật tỏ mới cho Ta nói ra đây chính là một điều thiết-thực. Hành-Động Nhiếp-Thâu hộp-hóa giữa mình cùng tất cả mà sở-đắc Hiện Nhất-Thiết Sắc-Thân đồng-hành đồng-sự là một Pháp-Môn Đạo-Hạnh Tối-Thượng, liên-hiệp với Như-Lai, đặng Như-Lai thọ-ký thành Phật. Hành-Động Thuận và Nghịch đều là Pháp-Giới, chỉ có ĐỒNG-HÀNH ĐỒNG-SỰ NHIẾP-THÂU tường-tận mới thâm-nhập Pháp-Giới trưởng-thành Ba-Thân Viên-Mãn mà thôi.
Còn lại phần Ba là: NGUYÊN-TƯỚNG Bất-Diệt Pháp-Giới, phần Nguyên-Tướng bất-diệt nầy vô cùng siêu-đẳng có hằng-hà sa-số lớp chúng-sanh nhìn-nhận khác nhau nhưng chung cùng thảy đều sống trong Nguyên-Tướng pháp-giới, bằng thoát khỏi vòng- đai pháp-giới thì mới hay chính mình lầm mê, sự nhận-thức của mình sai-biệt nơi chốn Nguyên-Tướng bất-diệt để tìm tòi cảnh-giới Niết-Bàn siêu-hình vạn-tướng do sự lầm-mê mà phát-sanh hoài-vọng đảo-điên nơi mộng-ảo.
Khi bây giờ có một Vị đến thưa gởi Đức Thế-Tôn : Bạch Thế-Tôn , Ở nơi đây nó là Đời Ngũ-Trược Ác-Thế hay Bồ-Đề Bất-Diệt ? Ở đây là Thế-Gian hay Tịnh-Độ Niết-Bàn, con kính nhờ Đức Thế-Tôn chỉ-giáo.
Ngài nói: Ở đây cũng là Đời Ngũ-Trược ác-thế. Nó cũng là Bồ-Đề Bất-Diệt nào sanh? Nó vẫn thế gian Tịnh-Độ Niết-Bàn, Ngài dạy xong lặng thinh không nói.
Vị kia thưa hỏi : Con kính nhờ Đức Thế-Tôn Ngài quyết-định một từ-ngôn- Niết-Bàn hay Tịnh-Độ, Thế-Gian Bồ-Đề con nhận lãnh làm ấn-quyết. Đức Thế Tôn Ngài đáp: Nầy Trưởng-Giả, Ta không thể ấn-quyết nơi nầy, chốn nầy chỗ nầy, địa-giới nầy là nơi chốn chỗ – Niết Bàn hay Tịnh Độ, vì sao? Vì ấn-quyết Tịnh-Độ Niết-Bàn, Ông không tu, chưa chứng đang còn Sanh-Tử, Tử-Sanh trong Vòng-Đai Pháp-Giới, lâm nơi Ngũ-Trược Ác-Thế mà tử-sanh, thì lời ấn-quyết kia Ta hoàn-toàn chịu trách-nhiệm hư-dối sao? Bằng Ta ấn-quyết nó là thế-gian, nó đầy Ngũ-Trược Ác-Trược Thế-Gian. Ông tu-hành tinh- tấn giải giới lầm mê chứng-tri Niết-Bàn, tỏ rõ Bồ-Đề an-lạc thì trái lại lời Ấn-Quyết nơi Ta là không thật sao?
Thiền-Sư đang suy-nghĩ câu chuyện trên của Vị thưa hỏi Đức Thế-Tôn, Ngài vô cùng tán-thán Đức Chí-Tôn tận-thấu Nguyên-Tướng, Thị-Hiện đầy-đủ cho từng lớp Chứng- Tri Giác-Tướng Sắc-Tướng cùng với TẬN-TƯỚNG Niết-Bàn của Ba đơn vị Chánh-Báo, Thọ-Báo nơi Phàm-Phu SẮC-TƯỚNG , chốn Bồ-Tát GIÁC-TƯỚNG cùng CHƯ-PHẬT TẬN-TƯỚNG , lành thay khéo thay cho Nguyên-Tướng Bất-Diệt.
Ngài nở nụ cười nói :
Trăm Năm TƯỚNG-THÚ thường-còn.
TƯỚNG-NGƯỜI bất-diệt , vuông-tròn khắp nơi.
Tiên-Thần TƯỚNG-THÁNH triệu-đời .
Nào đâu mất-mác mà lời kêu than ?
Hay thay ! Tuyệt-tác thay ! Cho Thượng-Cầm Hạ-Thú vẫn thường-còn hàng hàng triệu- triệu năm chưa bao giờ mất tướng , triệu-triệu vẫn còn nguyên, lại như Tiên-Thần Thánh-Hóa Chư-Phật Thánh-Tăng thảy-thảy Bất-Diệt. Tại sao nói nó Bị-Diệt, do lầm- mê phát-sanh cớ-sự .
NAM MÔ BIỆT TÔN VÔ-THƯỢNG-TÔN
Kỷ-Niệm ngày KHAI-NGUYÊN PHÁP-TẠNG
Mười Hai tháng Giêng
TỊNH-VƯƠNG NHẤT-TÔN
ẤN-QUYẾT
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI BA :
CHỈ CÓ PHẬT-ĐẠO MỚI TRIỆT THẤU SIÊU ĐẲNG KHOA-HỌC
Trong Thế-Kỷ Hai-Mươi nầy, nói lên chỉ có PHẬT-ĐẠO mới triệt-thấu Siêu-Đẳng Khoa-Học mà thôi. Thật khó hiểu khó nhận chân đặng. Vì sao? Vì Khoa-Học thực- nghiệm bằng hiện-vật kết-nạp hóa-chất, biến-thể cấu-tạo ra mọi hình-thức các môn, các ngành thảy đều chứng-từ cho tất cả thế-giới con-người có biện-minh chứng thật. Còn Phật-Đạo Chứng-Tri Tu-Chứng của mỗi Vị dù Vị ấy, thật tỏ rõ lời nói trên sát thật: CHỈ CÓ PHẬT-ĐẠO MỚI TRIỆT-THẤU SIÊU-ĐẲNG KHOA-HỌC chăng, vẫn chưa có bằng thể biện-minh đặng, cho nên nơi hiểu biết chính mình là một chuyện, Thông Đạt Tận-Thành Minh-Thuyết là một điều, Minh-Thuyết rõ ràng, biện-minh có lối giải là một đường lối. Còn những vị nhận chân được là một câu chuyện đáng nói, cùng với được nghe để thực-hiện một điểm khó-khăn nhất, trong bài Siêu-Đẳng nầy vậy.
ĐẠO-PHẬT, khi Phật ra đời , lời Đức-Phật toàn chân toàn-thiện, toàn chân-lý, đã chân-lý thì vốn nó rất thực-tế , cốt xây dựng nơi thân-tâm cho tất cả những bậc Tín- Tâm, tùy mức-độ trình-độ cùng lý-trí hồi-hướng, không ngoài hiểu-biết thực-hiện đến tận-thấu sở-đắc mà thôi, nên mới có TU-TẬP là phải TẬP-TU đến giai đoạn TU-HÀNH, lần sang từng mức một, gọi là TRÍ-TUỆ cứu-cánh . Trí-Tuệ cứu-cánh nầy là điều chưa bao giờ biết mà hiện nay thật biết, những gì mà lòng mình mắc-mắc nay đặng cỗi-giải cá nhân, Cá-Tánh nơi thân-tâm mình. Khi bấy giờ mới công nhận giá-trị bảo-pháp lời vàng chân-lý tôn-trọng Phật-Đạo.
Phật đã tận-tường thể-tánh, cũng như Nhà Bác-Học đã tỏ rõ phẩm-chất trọng-lượng. Ngài vốn thấu con-người nó sẵn Thể-Tánh: NHƯ-NHIÊN Tự-Biết . Bỗng nhiên Tánh nó phát-sanh An-Nhiên Thông-Cảm. HỒN-NHIÊN tiến bộ THÔNG-ĐẠT, đến chốn Rốt-ráo triệt-thấu, nó liền giải-thoát lầm-mê trên sanh-tử.
Chính ra con-người với Vũ-Trụ , con-người sống chung con người ngay bản thân mình chưa hiểu được mình, có nhiều lúc thân mạng chính mình còn phản-bội lại mình thì làm sao kết-quả mục-tiêu con người mong đạt đến?
Bậc Siêu-Đẳng là Bậc đã từng tận-thấu nguồn gốc phát-sanh, con-người lầm-lạc chạy theo nó để cầu lấy hy-vọng kết-quả. Nền văn-minh thế-hệ lâu-dài bền vững hay tan-rã cấp thời duy-nhất chính con người cần phải tận-thấu nó mà tận-dụng nó mới là một sự việc tối-cần xây-dựng.
Con Người phải thấm-nhuần triệt-thấu, Tánh tình mình, hoàn-cảnh mình đúng sai tự- tạo hay tự-nhiên mà có hoặc như-nhiên nó đến, tự chính mình có lý-trí thông- minh giải quyết ổn-thỏa cao- đẹp, cùng thật tỏ rõ tánh-tình của mọi người, hoàn-cảnh của mỗi từng lớp người. Những bậc triệt-thấu như thế Phật gọi là: TRI-KIẾN-PHẬT, nơi Tri- Kiến-Phật là chỗ kiến-nhận lời vàng Phật dạy, chớ chẳng phải là gặp Đức-Phật giao-cảm cùng Chư-Phật, đây là lời Ấn-Chỉ không hai. Bằng con người mới hiểu mới biết hoặc giả học đòi trên văn-tự để mà biết, chưa thực-hiện đặng như lời trên đều sống nơi bị-biết, chớ chưa triệt-thấu thâm-nhập.
Bậc đạt đến Vô-Thượng Siêu-Đẳng Chánh-Giác nói : Con Người làm chủ Vũ-Trụ. Ta đã thành Phật, các ông sẽ thành Phật, lời nói nầy chứng tỏ đưa con người toàn-diện theo tài liệu Phật-Đạo làm định-hướng thực-hành sẽ thấu-tận Siêu-Đẳng Khoa-Học. Vì sao? -Vì Lý-Sự Nghe-Thấy-Biết kia là một nền Điện-Tử bày-biện cho con-người, con-người chưa biết sử-dụng nó liền bị điện-tử điều-hành. Khi triệt-thấu nó thời chính nó trở lại cung- phụng cho con người bất-diệt.
Phật nói : Các Ông đang sống trong Sơn-Hà Đại-Địa , Núi-Sông Cây-Cảnh thảy đều đồng một cái-thấy, chỗ-nghe cùng biết lại sai-lệch nhau, nên chi Cái Thấy do các ông nhìn nhận theo Tâm-Thức của các ông riêng-biệt nhau, trở thành nhìn thấy sai khác là như thế.
Cái Thấy vốn nó Nhất-Tướng về NHƯ-TƯỚNG . Còn Tâm thời không chỗ chỉ, vì sao ? -Vì THƯỜNG-TỊCH Viên-Minh sáng soi chung khắp, do đó nên không chỗ chỉ. Đứng về phương diện THỨC là phương-diện TIỀM-THỨC linh-động thuyên-diễn nó không ngừng, nếu đứng yên từng bước một nó lại là Ý-THỨC.
Sự việc và cơ-cấu nầy các ông nào tận thấu THỂ-TÁNH Tướng-Tâm, vướng phải tiềm- Thức thao-diễn trong cái thấy mà phân-biệt dị-biệt, liền tự mang lấy hóa-chất nơi ý-thức nên chi nhìn-nhận thấy, trở thành CẢNH sanh TÌNH thành thử các ông phải nương nơi CẢNH để mà sống, chạy theo SẮC-TƯỚNG cầu lấy an-vui. Nếu không có Sắc thì các ông không vui sống, Bằng chưa có Tình khô héo bước đi, hai điểm nầy các ông đành theo Sanh-Tử, đó chính là điều đáng kể nhất.
Khi còn Phật tại-thế , Ngài Khai-Vị Đạo-Phật là Thái-Tử TẤT-ĐẠT-ĐA, dòng Phái-Tộc tại Ấn-Độ. Thái Tử vốn sẵn Thể-Tánh là Phật, nên chi bản-năng, Tâm-Chí VÔ-THƯỢNG-TÔN.
Tầm mắt nơi Ngài tổng-quát bao quảng BÌNH-ĐẲNG TÁNH-TRÍ cùng DIỆU-QUANG SÁT-TRÍ. Ngài đâu phải nhìn thấy Tâm-Thức riêng-biệt phân chia nơi tầm mắt Ý-THỨC , do đó nên chi Cá-Nhân lìa Ngã, Cá-Tánh chẳng có Địa- Phương-Giới tự-tôn . Lúc Ngài Khai-Vị, Ngài liền nói:Ta cùng các ông không khác, chỉ khác nhau MÊ-NGỘ mà thôi.
Thời nầy Khoa-Học chưa có Danh-Tánh, Ngôn-Thuận trên thế-giới. Thái-Tử tu-đạt Vô- Thượng Chánh Giác, Thái-Tử tận-thấu Vô-Thượng Siêu-Đẳng Khoa-Học, tỏ rõ tỉ-mỉ từng lớp-lang di-chuyển linh-động thuyên diễn Điện, Điện-Tử cho đến Siêu-Siêu Điện-Tử chung-khắp Vũ-Trụ Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới đang sống động lưu-hành.
Siêu-Siêu Điện-Tử nó cực-kỳ tinh-nhuệ, Phẩm nó lưu-hành, không chỗ nào nói lên từ- ngữ đặng, không nơi nào gọi là nó đi, nó lại hay chốn đến, đối với Ngài triệt-thấu nó mới thâu nhận đặng nó mà thôi. Do đó mới dùng Từ-Ngữ là NHƯ-LAI-TẠNG. Còn chỗ hiện- sanh Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới Rồng-Người Tứ-Loài Văn-Tự PHÁP-THÂN- PHẬT.
Tuyệt-Tác thay ! Ngôn-Từ Phật-Thuyết Như-Lai-Tạng Siêu-Siêu-Đẳng, vì Bổn-Thể NHƯ-LAI vốn Như Vậy , lưu-hành vãng-lai, lai-vãng chung-khắp, chẳng khác giọt nước Cam-Lồ cứu-an thiên-hạ. Không thể hỏi hay nói: Có phải là giọt nước hay chưa phải giọt-nước? Chính Bổn-Thể là giọt nước. Đối với Bổn-Lai Siêu-Siêu Như-Lai vốn như thế.
Còn Thế-Giới với con-người, Quả Địa-Cầu đang quay-quần hư-không-giới trong Vòng Thái-Dương-Hệ. Bậc Siêu-Siêu-Đẳng tỏ-rõ tường-tận chung khắp có từng vùng , có nghĩa là : Ngoài vòng Thái-Dương có hằng-hà sa-số thế-giới. Mỗi GIỚI là một VÙNG, mức-sống, lẽ-sống, tầm-sống, lối-sống thảy đều sống chia ra Lai-Sanh, Thượng-Sanh, Hạ- Sanh, Đương-Sanh, sự sanh-trưởng cao-thấp tùy theo Địa-Giới, Tiên- Giới, Thiên- Giới làm Tam-Giới. Kiếp-Sống, mạng-sống dài-ngắn tuổi-thọ cùng hiện-vật dụng-cụ vốn theo Thiên-Khí-Hiện. Tiên-Thanh-Ứng. Nhân-Sanh-Lực. Tịnh-Độ Như, Như-Lai-Tạng Siêu-Siêu-Đẳng tùy giới cung-cấp, trang trí đầy-đủ không thiếu-sót.
Con Người hiện-tại đương sanh-sống ở trong Địa-Giới nầy chưa bao giờ biết mình từ đâu đến, cho đến chư-Tiên hay chư-Thiên cùng Tịnh-Độ Tây-Phương Cực-Lạc thảy đều chưa biết đặng. Bậc Chánh-Giác Siêu Đẳng rành-mạch rõ ràng tận thấu, nên Ngài mới ấn-quyết con đường thoát-sanh xây-dựng thân-mạng tự-sanh từng cõi, từng tánh-chất chi hộp-hóa với thế-giới chính mình ưa-chuộng mà tu-tập tu-hành đoạt Như –Ý-Nguyện. Chẳng khác nào, con người mong trở-thành người Quân-Tử phải Tâm-Tánh Quân-Tử, những Bậc Vĩ-Nhân hay Siêu-Nhân phải có đầy-đủ tiêu-chuẩn Vĩ-Nhân Siêu-Nhân mà thành-đạt.
Phật-Đạo là một nền Tân-Tiến Hóa-Tạo Con-Người thực-tế Tu cốt TỎ , HÀNH cốt ĐẠT ngay THÂN-TÂM mình thật biết tỏ rõ, sau khi mạng vong sẽ đặng về đâu rất tường-tận quả-vị mình sắp đến, do đó nên chi những bậc Tu-Phật không bao giờ Sợ-Chết Cầu Sống, chưa bao giờ nhận lấy hơn-thua được-mất làm bước đi, mà chỉ tu-cầu tỏ-ngộ.
Phải chăng Phật-Đạo triệt-thấu BẢN-NĂNG THỂ-CHẤT và TÁNH-CHẤT PHẨM-LƯỢNG con-người cùng Vũ-Trụ Tam-Thiên, đang sống hấp-thụ cái gì, ảnh-hưởng ra sao, kết-quả của nó như thế nào ? Không khác vị Đại Lương-Y, hay một Bá- Học đã từng thực-hiện hóa chất cho hình-thành, những món đồ-dùng hay những viên-thuốc cốt cứu-chữa con bệnh lành-mạnh không tổn-thương cho con-người chăng ?
Đứng trước thế-giới, Nhân-Loại hoàn-toàn phế-nhân bất-lực cứu-chữa con-người, xây- dựng cho con-người thoát khỏi căn bệnh lầm-mê, chứng-bệnh điên loạn, nhiễm độc quay- quần bất-ổn trong kiếp sống do TẠNG-THỨC gây nên TIỀM-THỨC tìm-tòi theo Ý-Muốn của mỗi con-người thảy ra sóng cồn luân- lạc. Vì sao ? Vì Như-Lai là nơi an- lành đứng thứ nhất như Con-người không bệnh lành mạnh yên vui. Tất cả những con người ấy tự mang vào Tạng-Thức thời Như-Lai kia trở thành Như-Lai-Tạng. Mỗi nhân-loại gìn-giữ lấy một Tạng . Bá-Thiên vạn-triệu vô-số vô-biên Chúng-Sanh thành thử mỗi chúng-sanh phải hứng chịu một giới hạn của Tạng-Thức gọi là Chúng-Sanh-Giới . Khi đã hình-thành chúng-sanh-giới thời mỗi Người mỗi Bậc và mỗi Vị, cho đến mỗi thế-giới ngăn-biệt nhau cùng nhau trưởng-thành Tạng-Thức , khai-hoang Tiềm-Thức , ổn-định Ý-Thức , do đó nên chi mới có Tam-Giới chia ra từng Địa-Giới đã nói trên. Mỗi giới hiện-vật trang-trí như : Nhà-Cửa Lâu-Đài Cao-Ốc Thành-Phố có Cõi Thanh Ứng mà thành như Cõi -Tiên Cảnh-Tiên , có Cảnh-Giới như-nhiên đồng-hiện hoa-mỹ Ngọc- Bích Pha-Lê Xa-Cừ Xích-Châu Hỗ-Phách như Tịnh-Độ Quốc-Độ đồng-niệm Tưởng- Niệm mà thành-tựu , trang-nghiêm Bửu-Châu Trang Nghiêm Thất-Báu, Trang-Nghiêm Quốc-Độ cực-kỳ cao-quí Chư Bồ-Tát hằng-hà sa-số Bồ-Tát , cúng-dường lễ bái chiêm- ngưỡng Phật , trong-sạch liền-lạc an-nhàn thanh-tịnh đại thanh-tịnh Quốc-Độ không thể nào kể hết vô-biên vô-tận cao-quí, vô cùng thanh-nhã khó nghĩ bàn, khó dùng văn-tự để diễn-đạt vậy.
Sau đây chỉ nói về Địa-Giới Nhân-Sanh-Lực của con-người, phải toàn-năng tận-lực xây- tạo bằng sự làm, không thể nào tưởng mà đến, nơi tưởng suy-nghĩ cho Trí-Hóa Trí-Sanh Trí-Tồn, Trí đặng Thông-Minh thảy đều là ngọn đuốc Trí-Tuệ trợ giúp cho sự-làm mà thôi. Khi mà một con-người có bộ-óc thông-minh sống trong chỗ sống chưa chịu thực- hiện toàn-năng toàn-lực để làm, đa phần những con-người ấy sống nghèo đương nhiên Trí-Hóa , Trí-Sanh , Trí-Tồn có nhiều phiền-phức, chưa toàn-diện thoải-mái ngay bản- thân, chính ra Phật Ngài đã từng nói : TƯỚNG-TÁNH TƯƠNG-SONG hay ĐỨC-TRÍ Khiêm-toàn mới Tận- Giác , nên chi những bậc tu cao là những vị lăn-tròn theo quần- chúng bình-dị , không tự-mãn gọi là HẠNH-NGUYỆN nhập thâm đầy-đủ chiều-hướng cầu lấy Kiến-Tri, Tri-Kiến Giải-Thoát.
Cao-quí thay cho những con-người ưa làm để hiểu , càng hiểu-biết lại càng công-dụng toàn-năng toàn-lực để xây-dựng cho mình , đó là điều đáng khen nhất. Vì sao ? Vì Bậc nầy tự biết Sự hiểu Lý, biết kia nó có lợi cho chốn thông-minh của mình, phải trình-diễn mới thấy đặng nơi hay chốn dỡ mà thành-tựu do đó mới thực-hiện gia-công làm mà đến, đi mới đặng mà thôi.
Khi đã ở nơi Địa-Giới trên mặt đất quả Địa Cầu nầy, toàn-diện đều là ĐẶC-CHẤT. Các ngành Khoa-Học không làm thế nào hơn phải nhận lấy Đặc-Chất Hiện-Vật mà hóa-chất, từ một khởi-điểm nghiên-cứu đến thành-công, đó chính là một sự thường nó phải như thế, có địa-giới chớ chẳng phải địa-hóa mà đặng, nguồn-gốc do Phẩm-Chất nó như vậy. Sự lầm-tưởng nơi thực-hiện đúng với phẩm-chất, đúng với tư-thế có hòa mới có hiệp, không hòa thì chưa bao giờ hiệp, cũng như các bậc tu-hành rất cần Giác-Tướng về như-tướng chớ cầu tướng hóa tướng đó chính là bậc sai-lầm vô lượng. Nhà Khoa-Học nên chu-đáo công-trình Thể-Chất Hóa-Chất rất cần nơi hộp-hóa năng-lượng phẩm-chất đúng theo Công-Sự mới là bậc đúng-đắn. Không khác Chất Vôi tô với Gạch thì Vôi và Gạch hít nhau. Bằng Bột đắp vào gạch nó chỉ là dán chớ không hòa-hít.
Đứng về Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới diễn-đạt tỉ-mỉ từng giới trên tập bài chữ nhỏ nầy thì không thể nói hết đặng, chỉ giải qua một vài lý-nghĩa có thể lấy đó mà nhận-định thời hiểu-biết phần nào thôi, sau khi thực-hiện thời-gian mới nhận-thấy lời diễn-đạt đây chính là lời bất-hủ, vì sao? Vì thừa-hành CHÂN-TÔN Ấn-Chỉ.
Nói về Thiên-Khí-Hiện Cõi-Trời có 18 tuần-Trời , trong mười-tám tầm đều hấp-thụ Thiên-Khí-Hiện cao-thấp khác nhau , nhưng tất cả Chư-Thiên thảy đều dùng Tài-Trí- Hiện. Có phần cao hơn Địa-Giới Công-Lực kiến-tạo nơi Tài-Trí các Cõi Trời tinh-xảo gấp trăm nghìn lần địa-giới nó vẫn tùy ở tuần-trời mà xuất-hiện. Từ Y-ÁO, Cung-Điện, Dinh-Thự, Lọng-Phướng, Xiêm-Y, Rồng-Phượng mỗi-mỗi lập bổn lấy UY làm GỐC, lấy QUYỀN làm dụng, lấy THỂ làm Danh, lấy CHÂU làm chi-dụng. Ngoài ra không thể lấy ỨNG , lấy Thanh-Bai lả-lướt của Tiên mà trang-trí đặng.
Còn về Thanh-Ứng. Cảnh-Tiên hay Cõi-Tiên chia ra Bậc THIÊN-TIÊN và bậc THẦN- TIÊN là hai giới có hai đặc-điểm cực-kỳ về ỨNG và THANH cách-biệt nhau xa hẳn. Bậc THIÊN-TIÊN chủ-tọa về Cảnh-Tiên hay Tiên-Cảnh thanh-ứng rất cao-hoa tuyệt-mỹ. Bậc THẦN-TIÊN Tư-Thế về Cõi-Tiên thời Thanh-Ứng có phần thấp thanh- thoát có phần nặng-thô hơn Thiên-Tiên, chư Tiên vẫn lấy Tài-Phép làm gốc, lấy hưởng- thụ làm Thanh-Ứng-Hiện, nên chi y-áo lâu-đài cảnh-giới thảy đều Thanh-Chất Ứng- Hiện , tùy những vị cao-quý Thần-Thông mà thụ-hưởng, hoàn-toàn khai-thác thanh-ứng an-vui hỷ-lạc . Ngoài ra không thể dùng hiện-vật hay Tài-Trí. Cũng như Địa-Giới không thể áp-dụng được tưởng mà thành vậy.
Về phần Quả Địa-Cầu thế-giới con-người gần Hai-trăm Nhà-Nước , phong- tục tập-quán có phần khác nhau , khí-hậu mỗi mỗi nước sai-lệch nhau, duy chỉ có phần phát- triển đủ ngành về học-vấn để khai-hoang cho Trí-Hóa , đến Trí-Sanh chuyên nghề thành nghề bằng Trí-Tồn đặng Trí-Tuệ thông-minh phát-triển , hiện vật phát-huy hiện- vật tạo thành vật-dụng cho đến trang-trí kiến-trúc như ngày hôm nay con người đang hưởng thụ.
Ngành học-vấn cho Trí-Hóa nó chưa đủ phát-huy , lúc chuyển đến Trí-Sanh thời nó nương nhờ THIÊN-TƯ học ít rõ nhiều của mỗi bậc, phát-triển hiện-sinh ra nhiều Dược- Phẩm Mỹ-Phẩm những món hàng chưa bao giờ học mà đương nhiên kiến-tạo đặng , Bậc nầy gọi là Thiên-Tài, cho đến có hàng Nhân-Tài , có kẻ độc-tài có từng con-người ác -hiểm, có những hạng ăn chơi, có những đoàn múa-hát , có những lối trộm-cắp , có những nơi ưa-thích hành-hạ nhau , có những chỗ thương-yêu giúp-đỡ , chia ra từng lớp- lớp đang Sống chung trên quả Địa-Cầu nầy.
Bậc đã từng bao-quảng Tam-Thiên Đại-Thiên , biết tỏ rõ ngọn-ngành từng địa-giới, thiên-giới , Tiên-Thần Thánh-Hóa-Giới cho đến Giới A -Tu- La , Súc-Sanh , Ngạ-Quỷ và Địa-Ngục , gọi là Lục-Đạo, nên chi Ngài nói : Tất cả Thiên -Tài Bị – Sanh , Nhân-Tài Lai-Sanh , A –Tu-La, Ngạ-Quỷ , Súc-Sanh Địa-Ngục thảy đều chung-sanh trên địa-giới nầy, chẳng có chi là khác lạ.
Bậc Thiên-Tài Bị-Sanh nơi Địa-Giới chỉ phát-huy tài mình thôi chớ chẳng làm chi đặng. Còn Bậc Tiên lại thừa-hưởng thanh-nhàn không giúp ích chi Xã-hội. Bậc Thiên-Tài chung với Nhân-Tài đầy-đủ chính đó là bậc MINH-VƯƠNG cho nên sự làm rất cần có TÀI-ĐỨC , còn về phần dưới hổn-hộp nên chi Địa Giới phải bị mang danh là THẾ-GIAN-GIẢ .
Bậc Siêu-Đẳng Chánh-Giác đã thật biết cơ-sở tánh-chất, phẩm-chất, trọng-lượng của mỗi nơi chúng-sanh hỗn-hộp gây-tạo nên chi Ngài mới vạch ra tu-hành nhiếp-thâu tận- thấu tất-cả Thể-Tánh Bổn-Lai của mỗi mỗi Giới mà tỏ-ngộ gọi là Sở-Đắc Vạn-Pháp Tỏ- Pháp, chớ chẳng chi tỏ pháp. Nền Khoa-Học ra đời, đã từng qua, đã từng biết mỗi Chất nó là mỗi chất nơi nó, PHẨM của nó ra sao, lượng nó như thế nào. Khi bào chế hoặc lúc ráp bộ máy cho nó đã từng biết tỉ-mỉ hình-thành nó, sáng-tạo đặng nên hình nó những chiếc máy nên hình mà sử-dụng khác nhau theo các chiều hướng như : Máy Điện-Toán, Điện-Tử , máy thu-hình, máy phát-hình, cùng thu-phát-thanh chẳng hạn, cho đến những viên-thuốc trong ngành dược-phẩm có đầy-đủ tánh-dược, có đủ phẩm cùng lượng hiệp-hóa rất tỏ rõ không lầm-lạc tí nào. Đối với Chánh-Giác Siêu-Đẳng cũng như thế. Nhà Khoa-Học khi chế-biến còn dễ, vì chính tự tay mình hòa-hộp chế-biến , do nơi đầu-óc thật biết của mình ráp các bộ-phận hình-thành bằng máy, những bộ-máy kia toàn là hiện-vật nó tùy-thuộc theo lặng-lẽ chấp-hành nên rất dễ-dàng điều-động. Còn Bậc Chánh-Giác thật biết, biết tỉ-mỉ còn biết hơn thế nữa, biết sự lầm-lẫn, biết nơi tai biến, biết chỗ tác-hại cuồng-quay hư-hỏng nơi đầu-óc thân mạng con-người, do nơi nào, do chốn nào mà nó lầm-lạc, biết nó . Chính nó vẫn biết nó, nó đòi hỏi tri-ân kêu vang sự cứu-giúp nó. Nhưng trái lại Bậc Chánh Giác có quyền hướng dẫn khai-hoang, phần con- người phải phát tâm tự-sửa tự-giác đến tự-thành , ngoài ra không có quyền bắt-buộc sự việc nầy thật nan-y khó giải. Nên Phật nói : PHẬT BẤT HÓA-ĐỘ VÔ-DUYÊN , BẤT HÓA-ĐỘ ĐỊNH-NGHIỆP. Các Khoa-Học-Gia đành chịu sửa-chữa bộ-máy con-người, chính thân-mạng mình cũng đành chịu với lầm-mê trong con-đường Sanh-Tử. Đứng trong giai đoạn nầy, không riêng chi Địa-Giới gánh-chịu mà tất cả Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới, Tịnh-Độ Rồng-Người chúng-sanh đành chịu trở thành toàn-diện đều là phế-thân vô-lượng-kiếp vậy. Vì sao? Vì mỗi GIỚI, mỗi CHẤT, mỗi PHẨM, mỗi NƠI, mỗi CHỐN không thể nào vượt tầm-số mình, vượt giới-hạn trọng lượng mình để làm sự- việc nào khác hơn chính làm, làm y như thế mà hứng chịu.
Nền tảng cơ-cấu của Đạo-Phật tất cả thảy đều biết. Vị Phật ra đời hóa giải vô-minh , khai hoang Trí-Tuệ cho Tín-Chúng ưa thích Nhất-Tâm trở về Giác-Ngộ. Vị Phật bậc Chánh- Giác Siêu-Đẳng tối cao gọi là VÔ-THƯỢNG CHÁNH-GIÁC, Chủ-Quyền Như-Lai-Tạng tận-thấu Như-Lai , tận suốt-suốt nơi Như-Lai bao-quảng trùm-khắp , không có hai chiều xuôi ngược. Lúc bậc tu hiểu rõ đường lối thực-hành không vướng mắc thì giải- thoát.
Nhưng lạ thay ! Hoàn-Cầu thế-giới lầm-tưởng Đạo-Phật suy-đồi Mạt-Pháp. Sự lầm-lạc nầy nó riêng từng cá-nhân cá-thể của mỗi một Nhà-Nước. Nào ngờ các bậc tin Phật tu- hành quá đông, họ truy tầm cực-điểm . Mỗi người, mỗi Vị nương nơi Giáo-Lý Phật, đến nỗi đọc tụng thuộc lòng từng chữ một, có hàng hàng lớp lớp. Nhưng lạ thay chưa thấm vào đâu, đó chính là đáng kể trong bài nầy. vì sao? Vì Tầm-Số chưa hoàn-toàn thâu-đạt TỨ-TRÍ thì làm sao kết-thúc chân-lý Giải-Thoát ?
THẾ NÀO TỨ-TRÍ THÂU-ĐẠT GIẢI-THOÁT ?
TỨ-TRÍ là cơ-sở nhận-chân về với Giải-Thoát , lại là một nguồn mê bất-diệt nơi Sanh-Tử. Tất cả chúng-sanh giai-thành Phật-Đạo. TẤT-CẢ CHÚNG-SANH PHỤNG-HÀNH LẦM-LẠC.
TỨ-TRÍ chia ra bốn tầm-số bốn thứ-lớp nhận chân khác nhau trở thành khó hiểu, khó biết nhau, phát-sanh chưa thành NHẤT-THIẾT-TRÍ .
Kể từ Phàm-Phu. Nhân-Tài. Thiên-Tài. Thanh Ứng Thiên-Tiên trong vùng Pháp-Thân Như-Lai-Tạng thảy đều chung gồm TỨ-TRÍ thấu-đạt , do đó nên chi mới ảnh-hưởng mức-tiến đúng-sai với Chân-Lý Ấn-Chỉ-Phật. Tất cả chúng-sanh chỉ phát-hiện bằng Trí- Hóa chạy theo Trí-Tóa làm căn-bản hiểu biết phát-triển từng ngành, cho nên gọi Trí-Hóa là Chúng-Sanh Vọng-Tưởng Điên-Đảo. Sống theo cuộc-sống đảo-điên , Phật-Đạo nói từ nơi khởi-điểm của Trí-Hóa rằng : TRÙNG-TRÙNG DUYÊN-KHỞI DIỆT-SANH SANH-DIỆT.
Trí-Hóa là một nguồn phát-huy, từ nơi Thân Mạng con-người , nói chung lại là nguồn phát-triển chung khắp Vũ-Trụ Tam-Thiên Thế-Giới , nó nâng cao đời sống nhân-loại trưởng-thành khôn-ngoan linh-động trong các ngành, chia ra có nhiều ngành như Khoa- Học Kỹ-Thuật , các nghề-nghiệp các Bác-Sĩ Kỹ-Sư . Cho đến Bác-Học trong thế-kỷ thứ Hai-mươi nầy đang nhìn thấy, trên nguồn hiện-sanh của thế-giới không ngoài Trí-Hóa mà ra.
Trí-Hóa Hiện-Sinh chưa hẳn con-người học-hỏi mà nó phát-huy mạnh, nó do nơi Thiên- Tư đầu não riêng của mỗi người mà phát-huy mỗi lối , có hàng bá-thiên vạn trí-hóa , nó khắc-khe thay Đồng với Bất-Đồng là một hiện-tượng khó phân-trách ra được. Phần Trí- Hóa đối với Nhân-Sanh. Thiên-Sanh, Tiên-Hóa chung khắp Vũ-Trụ Tam-Thiên là một điểm chính của Tứ Loài, thành thử Vũ-Trụ Tam-Thiên phải bị-sống Nhị-Nguyên phân- đối sướng- khổ khác nhau, được-mất có-không chưa bao giờ thoải-mái . Vì sao ? Vì Trí-Hóa nó lại tùy-thuộc bản-chất của mỗi con người phát-sanh Trí-Hóa , dù cho Bác-Sĩ Kỹ-Sư Bác-Vật cho đến tầng-lớp không ngoài TỨ-ĐỒ là điều khó giải. Tứ-Đồ là Đạ- Đức hay Phi Đạo-Đức . Hung-Cường hay Mưu-Sĩ , đồng mà khó giải . Phật-Đạo cho Trí-Hóa chính nguồn điên-đảo hóa nên mới nói:
TẤT CẢ HƯ-VỌNG ĐẢO-ĐIÊN.
Khi con-người chưa hiểu Trí-Hóa nó chen vào Nghiệp-Lậu và Kiết-Sử hữu-hóa con- người chạy theo lối-sống lầm-than , chính con người rất kiên-sợ con-người khôn-ngoan mà xấu-tật nên con người mới đặt ra nền Giáo-Dục cho con-người. Con-Người và Đức PHẬT thảy đều có TỨ-TRÍ như nhau không riêng khác nhau. Nhưng con-người sử- dụng với con người, CÁI MÊ NÓ KHÔNG CÓ GỐC, nhưng Nguồn-Mê nó sẵn có một nguồn-mê. Khi con-người cùng Tam -Thiên Đại-Thiên Thế-Giới Mê-Loạn thì Tứ-Trí nọ vẫn nương nơi Mê-Loạn phát-huy có đầy-đủ Tứ-Trí như: Trí-Hóa, Trí-Sanh, Trí-Tồn, và Trí-Tận của nó. TRÍ-TẬN của nguồn-mê gọi là THÔNG-THÁI. TẬN-TRÍ nơi Phật- Đạo được gọi là CHÁNH-GIÁC.
Sự dạy-dỗ xây-dựng về phần Trí-Hóa của ĐỜI và ĐẠO rất hay. Đứng về Đời các Nhà Hiền-Triết phát-huy hai chữ LUÂN-THƯỜNG sắp xếp con người kẻ nhỏ tôn-trọng người lớn làm cho Trí-Sanh một lối-sống Tôn-Ti tự-trọng nhau . Còn về Đạo thì nung- đúc Trí-Sanh Đạo-Giáo Khiêm-nhiệm luôn Luân-Thường Đạo-Lý của từng Cá-Nhân con-người nương theo mực-thước đi đến chỗ Hiền-Triết , nên có câu : Dạy Con, dạy thuở còn thơ , Dạy Vợ dạy lúc bơ-vơ mới về.
Về Bậc Chánh-Giác Siêu-Đẳng có tài-liệu đề án rõ-ràng tỉ-mỉ đưa toàn-diện con-người bước vào con đường Tri-Kiến Giải-Thoát tất cả Trí-Hóa đến Trí-Sanh qua đặng hai trí về với CHÂN-TÔN TRÍ-TỒN triệt-thấu Tận-Giác, vô cùng tuyệt-tác thay cho CHÍ-TÔN VÔ-THƯỢNG.
Bậc tận-thấu Siêu-Đẳng nói đến Tứ-Loài Nhân Sinh và Tiên-Cảnh Tam-Thiên Đại- Thiên Thế-Giới dù cho những bậc thông-thái Hiền-Triết hoặc giả Vĩ Nhân hiện-đại chăng vẫn phải nằm trong Trí-Hóa hư-vọng , vì sao? Vì Trí-Sanh vẫn hóa-sanh , trí-tồn bị tồn, tận- thấu chăng vẫn tận thấu hiện-sinh hiện-vật chớ bản-thân chưa bao giờ tận- thấu con đường Siêu-Đẳng.
Do đó nên chi Con Người bước vào con đường Đạo-Phật, trước tiên Hỷ-Xả tất cả các sự-việc trong thân-tâm mình, dọn cho sạch-sẽ Trí-Hóa, NHẤT-TÂM ĐẢNH-LỄ chiêm – ngưỡng lễ-bái Phật, nương theo ngôi Tam-Bảo tu-hành theo ĐẠO-LÝ và GIÁO-LÝ làm nền-tảng cải-hóa Giải-Nghiệp.
Những bậc tu hành, các bậc tu hành tùy theo Tín Ngưỡng, tùy trọng lượng bản năng đường hướng suy tưởng mà phát-hiện Trí-Hóa chia ra nhiều lớp mà tu hành, cho nên cùng một quyển Kinh, một lời Phật dạy mà nơi hiểu biết khác nhau trong con đường tu- tập, nguyên do Trí-Hóa quan-niệm của mỗi Vị xuất-phát từ nơi thân-mạng.
Đặc-Nhiệm ĐẠO và ĐỜI có hai đường lối khai hoang Trí-Hóa về với Trí-Sanh như sau: Đời tận dụng xây-dựng từng con-người một nền Đạo-Đức Trí-Hóa đến Trí-Sanh. Về Đạo-Phật đương- thời TRÍ-HÓA KIỂM-SOÁT TRÍ-HÓA lần tiến bao-trùm toàn-diện thân-tâm mình phát-sanh Trí-Hóa gọi là HÓA-GIẢI , TỰ-TÁNH TỎ-TÁNH.
Phải Tự-Tánh Tỏ-Tánh hóa-giải Trí-Hóa, rất cần đến bậc THIỆN-TRÍ-THỨC hướng- dẫn , vì sao ? Vì Trí-Hóa đặng Trí-Sanh căn-bản vào con đường Giải Thoát là một vấn- đề đưa cho những bậc Tín-Tâm từ một kiếp Giải-Thoát đến vạn-kiếp chưa giải-thoát. Con đường Tu-Phật quan-hệ nhất từ chỗ Trí-Hóa về với Trí-Sanh đúng với tinh-thần Giải-Thoát liền đặng Giải-Thoát bằng không đúng với tinh-thần dù có tu vạn kiếp vẫn sanh tử.
Do nơi then chốt nầy mà Phật Đạo bị đánh giá đạo chúng lầm than sống trong mê tín, hiếm bậc CHÁNH-TÍN về với CHÂN-TÔN .
THẾ NÀO CHÁNH-TÍN CHÂN-TÔN ?
Những bậc tu lần vào con đường chánh tín rất cần buổi ban đầu SỬA TÁNH, tánh tình nơi mình nó linh-động diễn-tiến qua từng lớp-lang thuận nghịch, phát-hiện từng hoàn- cảnh gây-hấn phải lướt qua từng giai-đoạn đến sau biết đặng từng hoàn-cảnh mà giải- quyết dung-hòa giải quyết hàng phục đức-độ giải-quyết.
Qua thời thứ Hai. Nhìn thấy bản-thân vô cùng nghiệp, càng lướt qua Nghiệp bao nhiêu nghiệp lại tang-trưởng đè mình, bậc tu-hành cố-tạo Công-Năng Công-Đức làm nơi nương-tựa để lướt qua, Nghiệp nó từ trong Nội-Tâm khởi-sanh Nghi-Chấp, khởi-hóa chấp-nghi nhịp-nhàng vô kể nó mãi kéo, mãi lôi, mãi qua, mãi lại. Sự dằn-co với Nghiệp nó mãi diễn làm cho các bậc tu-hành Tự-Hóa DIỆT-NGHIỆP, giai-đoạn diệt-nghiệp nầy, có hàng trăm, hàng ngàn hình-thức diệt-nghiệp chỉ nhất hàng CHÁNH-TÍN CHÂN-TÔN mới không Diệt, gìn-giữ hư-vọng ít phát-sanh. Chân-Tôn có nghĩa là CHƠN-TÁNH TRỰC-NGỘ, bậc nầy được gọi là bậc tu Trí-Tuệ Căn-Bản.
Nói đến thời Ba là thời chung-kết nơi Trí-Hóa nó vẫn hòa lẫn với Trí-Sanh thao-diễn, càng Truy nguyên hóa giải bao nhiêu lại càng nghi chấp trí sanh bấy nhiêu có khi tăng, có lúc giảm, giảm cho đến độ tựa như mình không còn muốn suy-tưởng chi nữa, vẫn biết mình không chấp mà vương vào chấp-không. Những bậc tu, có lắm bậc biết tu mà đa phần lầm-lạc cuộc Trí-Hóa Trí-Sanh nơi mình mà Thọ-Chấp đứng yên chưa lối-thoát. Vì sao? Vì Vạn-Pháp Huyễn-Hóa do nơi Trí-Hóa mà ra, trơn liền không trụ , kiểm-điểm Trí-Hóa Tỏ-Tánh đặng Tỏ-Tâm , Tỏ-Tâm liền đắc-pháp.
Đứng nơi giai-đoạn thứ Ba nầy, nó mãi diễn Trí-Hóa cùng Trí-Sanh, không thể nào kể nổi là bao nhiêu kiếp mới thành quả. Vì sao? Vì lý-sự kết-sanh Như-Nhiên nó kết. Bỗng- nhiên, Hồn-Nhiên nó đạt. Bằng mộng-tưởng điên-đảo về với Trí-Sanh vấp vào nơi Sanh- Hóa. Nên Phật-Đạo căn-dặn vào nơi Bát Nhã để tu, cốt tu-cầu TRÍ BÁT-NHÃ. Trí Bát- Nhã nầy là con đường không trụ Như-Nhiên, An-Nhiên, và Bỗng-Nhiên nó đến.
Do đó nên chi bậc tự biết gìn-giữ quả-vị mình thực-hành. Trí mình Hóa liền hóa-giải, mang tài liệu Hóa-Giải nói cho bậc khác Hóa-Giải, đi trên con đường Tự-Giác, Giác- Tha, Tự-Lợi, Lợi-Tha là một con đường nhiếp-thâu về Trí-Hóa, tận rõ căn-cơ, trí giải mơ-hồ bằng chẳng thế vương mang lầm lạc nơi Trí-Hóa Lầm-Tưởng mình là Bồ-Tát Hiện-Sanh, hay Phật ra đời, trở thành Sanh-Hóa.
Nơi Trí-Sanh tùy vào Trí-Hóa của mỗi Vị mà tu-đạt. Có Vị chứng VÔ-SANH pháp-nhẫn . Có bậc chứng Thực-Tướng Vô-Tướng Tam-Muội Pháp-Môn. Có Bậc nương nhờ Bình-Đẳng Tánh-Trí mà đường tu chủ-quán Sơn-Hà Đại-Địa sau Trí-Sanh Sở-Đắc Pháp-Thân. Khi bấy giờ đã sở-đắc không còn phải dùng Trí nữa, Vì sao? Vì Trí-Tuệ vị trí trong Căn-Bản Trí-Hóa, thuộc về tư-tưởng phát-sanh, Phật Đạo gọi là Bản Ngã Giả Tướng. Thời nầy có rất nhiều bậc tu hành sai lạc với hướng tu, lấy Trí-Hóa vọng-cầu trí- hóa nên chi bị-biết thật nhiều, bị-tu không ít do lòng mong-mỏi Trí-Sanh , thêm vào đó nhìn nhận học-vấn lấy trình-độ học-vấn để hiểu biết Chân-Lý, làm sao tận-thấu đặng Chân-Lý, do duyên-căn này mà Bị-Chứng CHÂN-KHÔNG – Trí-Sanh TĂNG-THƯỢNG tu theo tối-sáng mật-mờ, hiếm bậc thực-chứng Chân-Không, những vị thực chứng Chân-Không, bậc nầy vẫn nương nơi Đạo-Lý, không tách rời ĐẠO-HẠNH chẳng xa-lánh Đạo-Tràng gọi là HẠNH-NGUYỆN . Vì sao ? – Vì Đạo-Lý là TẬN-ĐỘ , còn GIÁO-LÝ là ngón tay hướng-dẫn làm mức tiến cho bậc Tín-Tâm cứ như thế mãi , thân tâm bao dung đương nhiên bao-quản Tồn-Trí , khi bấy giờ mới tỏ rõ từng Pháp-Giới, kiểm-điểm từng mạch-lạc của nguồn-mê mà Tận-Thấu không mắc-miếu Pháp-Giới , đến Tận-Thành Siêu-Đẳng CHÁNH-GIÁC, mới hay, mới rõ cùng Tận-Giác, tất cả nguồn-mê khởi-sanh, khởi-diệt, khởi-cấu, khởi-tịnh sự lầm-lạc trước của A-Tăng-Kỳ-Kiếp lộn vòng Sanh-Tử, Tử-Sanh đều là VẾT CHÂN-PHẬT.
Tuyệt-tác thay ! An-Lành thay con đường GIẢI-THOÁT ! Lúc lầm mê nó là PHÁP-GIỚI. Khi Tỉnh Ngộ nó là PHÁP-THÂN. Lúc TẬN-THÀNH đều VẾT-CHÂN-PHẬT .
NAM MÔ VÔ-THƯỢNG-TÔN PHẬT THÁO-ĐÃY
VÔ-THƯỢNG-TÔN ẤN-CHỈ
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI BỐN :
CON ĐƯỜNG DUY NHẤT XÂY DỰNG BẢN NĂNG
BẢN-NĂNG thời chung khắp . Từ Tam-Thế-Phật đến Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới , Lục-Đạo Tứ-Loài , Thiên , Nhân, A-Tu-La , Ngạ-Quỷ , Súc-Sanh đến Địa Ngục , Rồng- Người súc-vật, chỉ chung hiệp có NGHE-THẤY-BIẾT đều có BẢN-NĂNG.
BẢN-NĂNG Thượng-Trung-Hạ , yếu-kém hay lành mạnh ương-hèn hay Lười-Trễ, Tịnh hoặc giả Bất-Tịnh, bỗng-nhiên hộp-hóa mà thành không phân-biệt, Bản-Năng là BẢN- CHẤT với CÔNG-NĂNG phối-hợp nên rất Bình-Đẳng , chư Phật chư Bồ-Tát vẫn phụng-hành tu-đạt Vô-Thượng CHÁNH-GIÁC.
Khi Thái-Tử TẤT-ĐẠT-ĐA , Ngài Thiền-Tọa, Tĩnh-Tọa, An Tọa dưới Cội Bồ-Đề đoạt Vô-Thượng Chánh Giác . Ngài nói : Lạ thay Vô-Thượng đã từng sẵn có từ lâu , hôm nay Ta mới đạt.
CHÁNH-GIÁC toàn chơn, toàn thiện ngày nay Ta mới tận-thành. Phải chăng do Ta chưa đồng-đẳng Bản-Năng nên phải Tu đồng mà chứng ?
Sau khi Ngài đã chứng, lời Ngài đều Vô-Thượng-Đẳng, từ ngay hơi thở nơi Ngài , cho đến lời Ngài Ấn-Chỉ đều là PHẬT.
Toàn thân đều là KIM-THÂN , toàn-diện đều tỏa CỬU-PHẨM LIÊN-HOA chung hộp Chín màu quang tỏa đầy-đủ Vi-Trần-Phật Ứng- Hiện, Thị-Hiện Đồng-Hiện , Ngài xướng Danh-Hiệu : BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT.
Đức Bổn-Sư ra đời Ngài nói : TA PHẬT ĐÃ THÀNH . CÁC ÔNG PHẬT SẼ THÀNH. Lời Công-Bố tuyệt-tác thay ! Nhưng nào đâu phải dễ, vì sao ? – Vì Địa Vị, thứ vị, Phẩm- Giá , phải vươn mình vượt tầm, xuất chúng, bước qua Chín Bậc Bảy Báu trang nghiêm nhiếp độ, tận-độ mới thành-đạt Quả-Vị từng lớp.
Bằng Bản-Năng chưa toàn diện trọn vẹn làm sao thành? Đức Bổn-Sư trải qua 49 năm dạy-dỗ Bản-Chất và Công Năng phối-hợp đồng-đẳng nhiều ít, từng lớp-lớp đặng Ứng-Thân Tu-Chứng hàng Tri- Kiến Giải Thoát. Đứng trước một Vị-Phật toàn năng cao đẹp lớp lang, Ngài ấn-chỉ đủ điều không thiếu sót, còn dặn dò từng bước một lưu lại Chư Bồ-Tát thọ-trì chỉ dạy với mục tiêu chính cho tất cả chúng-sanh thảy đều thành Phật.
Khi bấy giờ Hội-Trường Linh-Sơn có hàng hàng lớp lớp Tứ-Chúng. Công-Năng chưa đồng, Bản Chất chia ra vô số vô-biên Thể-Chất của mỗi vị. Sự Nhất-Tâm Đảnh-Lễ cầu Tri-Kiến Giải-Thoát thì có, nhưng Công Năng Bản-Chất thiếu khuyết mới làm sao? Ngài tự thán: CHÚNG-SANH ĐA-BỆNH. PHẬT ĐA-HẠNH. Lời than nầy cảm-thấu Chư-Phật Mười-Phương rung-chuyển. Chư Bồ-Tát đập tay vỗ trán tự-nguyện giải- pháp cứu-giúp chúng-sanh bằng cách mỗi Bồ-Tát cứu-giúp chúng-sanh mỗi Long-Mạch như sau:
Bồ Tát Phổ Hiền Nguyện: Giúp-đỡ các bậc tu-hành về Tinh-Tấn-Nguyện. Văn-Thù Sư- Lợi Pháp-Vương-Tử-Nguyện giúp đỡ về Trí-Tuệ Nguyện. Thế Chí Nguyện Tổng-Trì Trí-Hóa Nguyện. QUÁN-THẾ-ÂM Nguyện Cứu-Khổ Giải-Ách-Nguyện, còn tất cả chư Bồ-Tát Nguyện tận-độ chúng-sanh giai-thành Phật-Đạo Nguyện. Khi bấy giờ ĐÔNG-ĐỘ phóng Huỳnh-Huỳnh-Quang, Bạch-Bạch-Quang, Nguyện cứu-độ chúng-sanh TRỰC GIÁC-Nguyện TÂY-ĐỘ A-Di-Đà, Vãng-Sanh Cực-Lạc Quốc-Độ-Nguyện. Tất cả Chư- Thiên, Chư Tiên-Thần Rồng-Người chưa hề hay biết, làm sao các bậc tu-hành trong Tứ-Chúng sẽ hiểu thấu sự việc chư Phật đã làm, chư Bồ-Tát-Nguyện giúp-đỡ chúng sanh thay lần Bản-Chất, kiến-tạo Công Năng. Công-Năng nó chỉ có một, nó chẳng khác nào Chiếc xe đầy-đủ Mã-Lực. Còn Bản-Chất thường nhiễm, thường thay-đổi di-chuyển, mỗi một khi nó đứng yên bản chất bị lâm vào hai đường Chánh-Báo hay Thọ-Báo, lúc nó nhận-định sai-lầm chạy quanh thời bản-chất đảo-điên, điên-đảo gọi nó là Vô-Lượng- Nghĩa. Từ nơi Vô-Lượng-Thọ đến Vô-Lượng-Báo cùng Vô-Lượng-Nghĩa kia nó làm cho tất-cả các bậc tu-hành khó tu-đạt đến Chánh-Giác.
Xây-Dựng Công-Năng và Bản-Chất , diện-mục nơi nó trực-thuộc về chúng-sanh Tứ- Loài phải vươn mình xây-dựng đối với Chư-Phật cùng Chư Bồ-Tát không thể xây-dựng cho chúng-sanh đặng, nên chi các bậc tu-hành dù cho Tín-Tâm chưa chịu vươn mình lướt qua vạn-pháp hoàn-cảnh, chưa tự chính mình hóa-giải mê-lầm nằm yên cầu-vái thảy đều chưa đặng lấy một ngày tu.
Đức Bổn-Sư khi Ngài chưa thành Phật, chưa đạt Vô-Thượng-Đẳng Chánh-Giác Ngài phải tu, Ngài phải xây-dựng Bản-Chất với Công-Năng, nương nhờ Công-Đức trải qua chẳng biết bao nhiêu kiếp Tiền-Thân. Có rất nhiều kiếp làm Tiên-Thần Thánh-Hóa, làm chư Tăng, làm tất cả nơi hiện thân Ngài đầy-đủ trong Lục-Đạo Ba-Cõi Rồng-Người. Ngài đã từng bị Bản-Chất tốt xấu điểm tô, thăng-trầm vô kể, nơi Tam-Tạng Kinh-Điển Ngài tự nói lên thời Hiện-Thân nơi kiếp Tiền-Thân, để bày-tỏ con đường Sanh-Tử lầm- lạc vốn chưa biết tạo Công-Năng, xây-dựng bản-chất, gọi là một con đường duy nhất Chư-Phật đã làm, chư Bồ-Tát phải làm. Các hàng chúng-sanh phát-tâm tu-hành, nương theo học làm để đến chốn phải làm, nhiếp-thâu thành Phật.
Sau lúc tu-đạt Vô-Thượng-Đẳng Chánh-Giác Thành-Phật. Ngài công-nhận sự lầm-lạc chính nơi Ngài vô số kể vì sao? – Vì Bản-Chất Như-Lai phát-hiện hằng-hà sa số vô- lượng vô-biên Chất-Phẩm, chung khắp toàn-diện không trên, chẳng dưới cùng trong ngoài nào cả. Còn Bản-Chất nơi Chúng-Sanh có trọng lượng, có cao thấp trong ngoài, trên và dưới phải trái được-mất vô-biên lầm-lạc từng lớp-lớp hàng hàng tu nơi chánh- báo, thọ-báo đến lúc đoạt quả phải thọ-lãnh Vô-Lượng-Nghĩa, nào là Nương-Tựa Căn, Háo-Danh Căn từng lớp Căn-Tánh làm chúng-sanh-giới khó tu đạt Chánh-Giác.
PHẨM-CHẤT Như-Lai như vậy. Bản-Chất chúng-sanh như thế. Khi chúng-sanh thu- nhiếp hằng-hà sa-số vô-lượng vô-biên, mới trưởng-thành Phẩm-Chất Như-Lai hộp-hóa mà thành. Vì sao? Vì Bản-Chất đó là Hạt-Giống Như-Lai hay hộp-hóa dung-thông tự-tại. Chúng-Sanh tu-cầu con đường Tri-Kiến phải thực-hiện ra vào các hoàn cảnh mà Tâm không quái-ngại , Tâm còn quái-ngại thời bản-chất chưa phát-huy , bản-chất chưa phát-huy chính là Bản-Ngã.
Phật dạy Bồ-Tát lìa Bản-Ngã, Không-Trụ mà Trụ, Trụ mà Không Trụ, đó chính là ra vào hoàn-cảnh tâm không quái-ngại thọ-pháp Đại-Bi Tổng-Trì Bản-Chất. Nên chi có câu: BỒ-TÁT VÔ-NGÃ NHIẾP-THÂU VỀ ĐẠI-NGÃ BÁT-ĐẠI.
CÒN CHÚNG-SANH HỮU-NGÃ LẦM-MÊ.
Bồ-Tát thường đặt địa-vị mình , cương-vị mình hay thân-mạng mình trong hoàn-cảnh của chúng-sanh, soi rõ, hiểu rõ, đồng biết rõ, để hóa-giải cứu-giúp chúng-sanh không phân biệt lành-dữ tốt-xấu tịnh bất-tịnh, làm cho chúng sanh được lợi . Bồ-Tát không hổ- thẹn vui-mừng vì chúng-sanh mà Bồ-Tát gánh chịu, do đó nên chi Bồ-Tát ra vào nhiều kiếp thọ-lãnh pháp-độ , nhiều tận-độ chúng-sanh mà Bồ-Tát không có tội, chỉ có phước- điền quá ư to-lớn khó mà ai sánh kịp với Bồ-Tát, mới gọi là Bồ-Tát cúng-dường Như- Lai, làm cho Như-Lai tán-thán Bồ-Tát, nên Bồ-Tát sở-đắc :
HIỆN-NHẤT-THIẾT SẮC- THÂN TAM-MUỘI.
Tại sao con đường duy-nhất Phật-Thừa dễ-nghe khó làm, hoặc giả dễ làm mà khó nghe? Vì Công-Năng chưa đầy-đủ theo từng lớp tu-chứng nên chi dễ nghe mà khó làm. Bằng chưa thấu tầm quan-trọng Chánh-Báo Thọ-Báo trong Vô-Lượng-Nghĩa nên dễ làm theo dục-vọng mà khó nghe lời Phật dạy.
Hai điểm trên rất quan-trọng, rất nguy-hiểm trên con đường tu-phật nên chi phải tùy theo trình-độ trọng-lượng Công-Năng mới bảo-trì quả-vị , phải hóa-giải phá nghi-chấp tùy Công-Năng mới thực-hiện nó chưa phải lâu mau, chậm hoặc tiến mà đặng. Công- Năng trên đã nói nó là một chiếc xe Mã-Lực, tốc độ nơi nó tùy theo Mã-Lực , Các bậc tu-Phật phải tùy Mã-lực của Công-Năng mà lần tiến, không thể chuyên-chở nhiều, cũng không thể chuyên-chở ít hay đứng yên mà xây-dựng, nên chi Phật dạy câu Bất-Tăng Bất-Giảm, Bất-Cấu, Bất-Tịnh, sự-lý TĂNG-GIẢM CẤU-TỊNH nầy có một ý-nghĩa. Công-Năng và Bản-Chất phải tương-đồng vừa nhiếp-thâu Bản-Chất, vừa nâng đỡ vươn mình qua trở-lực kiến-tạo công-năng xây-dựng cán-cân dung-hòa trí-tuệ liền dung-thông về với Chánh-Giác.
Vì sao ? – Vì BẢN-CHẤT chung khắp vô-lượng vô-biên Chất, những Thể-Chất nầy đồng-đẳng , do mỗi chúng-sanh lãnh lấy một chất , chướng-đối bất-đồng nên chi nó bất- đồng-đẳng với Chúng-Sanh-Giới gọi nó là BẢN-THỂ-TÂM.
Khi Tâm kia năng-biến , chúng-sanh bị-biến , theo tâm , nên chi trước khi phải tu-tâm chung gồm tận-thấu tâm mà tỏ-tánh, lúc tỏ-tánh về với Như-Tánh thông-đạt Tâm đồng Tánh là một. Pháp cùng Tâm không hai, Lý và Sự đồng nhất, gọi là tu-đạt Bản-Thể- Tâm. Bậc tu-đạt Bản-Thể-Tâm tận-thấu Diện-Mục Bổn-Lai của Bản-Chất mỗi nơi, Mỗi chúng-sanh-giới đều có một Bản-Chất, chia ra trở thành chủng-tánh chúng-sanh. Chủng-Tánh Bồ-Tát và Chủng-Tánh-Phật , sự nhìn-nhận khác-biệt nhau, lý-trí xa vời nhau, không ngoài Vô-Lượng-Nghĩa, Vô-Lượng-Thọ và Vô-Lượng-Báo.
Các bậc tu-hành chớ nên dùng lý trí mà tự-quán sáng soi chớ nên dụng vươn mình tận- lực cầu-báo quả-vị , hãy ĐÁNH ĐỔI TỪNG CƠN , DẸP TAN LƯỜI-TRỄ, cố tạo lấy Công-Năng cùng Trí-Tuệ mà : Như-Nhiên Tự-Biết . Bỗng-Nhiên bản-chất phát-sanh. Hồn-Nhiên thấu đạt Bản-Thể Chủng-Tánh ba thứ lớp trên đã nói. Vì sao ? – Vì Chúng- Sanh-Tánh luôn luôn nhìn nhận, thấy mình sống trong hoàn cảnh, sướng khổ được mất thành thử chúng-sanh ấy dù có tu đầy-đủ Công-Năng chăng , vẫn còn nằm nơi tu cầu Phước-Báo Nhân-Thiên làm sự kết quả đường tu nơi mình, ngoài ra chưa hiểu biết chi cả. Còn hàng Bồ-Tát lại nhìn-nhận vạn-pháp quay-cuồng sanh-tử , cốt-nương nơi pháp tỏ pháp đặng tri-kiến giải-thoát mà thôi , do đó nên chi mới phát-nguyện độ-sanh , ra vào vạn-pháp thuận-nghịch , sướng khổ bất-luận hoàn-cảnh nào chăng vẫn an-nhiên không thấy hoàn-cảnh , vì sao? Vì Bồ-Tát thâu -nhận lấy Giác-Tướng , tỏ-pháp thành thử thoát-sanh tâm không chướng ngại hoàn-cảnh mà tự-nguyện độ vạn-pháp thuận- nghịch đến chốn an-lành, thâu-nhận tỏ-ngộ thôi. Về Chủng-Tánh Phật. Không thấy Chúng-Sanh , không thấy Bồ-Tát, chỉ thấy tất-cả thảy đều Đại-Diện Như-Lai Ứng-Hiện Như-Lai, phẩm Cúng-Dường Như-Lai , bình-đẳng Chư-Phật . Do đó nên chi Chư-Phật đối với Chúng-Sanh quá gần, quá bình-đẳng, quá an-nhiên, quá thân-cận, không thể nào dạy chúng-sanh, không thể độ chúng-sanh, duy chỉ hàng Bồ-Tát mới độ chúng-sanh mà thôi.
Tuyệt-Mỹ thay MÊ và NGỘ . An-Lành thay Hộp-Hóa Bản-Năng, chính mình mê-lầm chớ chúng-sanh nào mê-loạn ? Vì chúng-sanh Ứng-Hiện của Như-Lai, nên đã làm tất-cả mà khó nghe lời Ấn-Chỉ . Còn hàng Bồ-Tát dễ nghe mà khó thực-hiện nên phải thực-hành Chánh-Giác Hòa-Hiệp Như-Lai . Đây một Ấn-Chỉ không hai, nên chú tâm Phật Niệm.
NAM-MÔ PHÁP-ĐẢNH NHƯ-LAI
VÔ-THƯỢNG TÔN-PHẬT
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI LĂM
KHAI HOANG TRỰC CHỈ
Lúc bấy giờ Thượng-Tọa Thiền-Sư nhập Chánh Định ngay trên chiếc Chõng, ngoài vòng trời, mây ngưng gió vừa thoang-thoảng, gồm tất cả ánh quang-rạng sáng bên Ngài Thị-Hiện Long-Xa , Càng-Cát , Bửu-Châu Lọng-Phướng pha lẫn Nhạc Trời, Chư Thiên tề-tựu, hàng Hộ-Pháp chỉnh-tề, Chư Bồ-Tát đủ mặt, trong hàng Bồ-Tát Ma-Ha-Tát cận- kề lãnh-giáo, Chư Bồ-Tát Hộ-Pháp thọ-trì phụng-giáo, ngoài ra có hàng chưa bao giờ nghe đặng, nay đặng nghe, thêm vào đó có bậc nương theo công-đức để mà nghe, xưng- tán sự Khai-Thị vào con đường NHẤT-TÔN tu-tập , đồng nhau ứng-trực , đồng nhau Nhất-Tâm tu cầu GIẢI-THOÁT.
Thượng-Tọa an-nhiên , phóng Cửu-Quang từ đỉnh đầu, lần-lượt Cửu-Quang tỏa khắp Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới , Vũ-Trụ Rồng-Người , hàng-hàng lớp-lớp rãi hoa chào đón lời KHAI-HOANG TRỰC-CHỈ. Xong đâu đấy Ngài thâu hồi Cửu-Quang đồng-hòa Thường-Tịch-Quang , Ngài ngồi an-tọa, nhìn khắp các hàng đang ứng-trực thỉnh-giáo. Thượng-Tọa Thiền-Sư Xuất-Định từ Thường-Tịch-Quang công-bố :
Nầy tất cả Thượng-Sanh Vương-Giả Chư-Thiên Tam-Giới , đến các hàng Bồ-Tát tận-độ chúng-sanh giai thành Phật-Đạo, cho đến các hàng-hàng lớp-lớp hộ-pháp thọ-trì, Chư-Tiên hưởng Phước, kể cả phàm-phu nhân-thế, đến Càng-Cát Long-Xa dù cho có dũng- mãnh trang-nghiêm hay cứu-độ tận-độ muôn ngàn thế-giới thọ-lãnh bảo-châu chăng vẫn chưa bao giờ hay biết vạn lối Độ-Sanh như thế nào ứng-dụng , chưa bao giờ hay đặng Chư-Phật đã làm gì, chúng-sanh cầu báo nó ra sao mà đi vào con đường Giải- Thoát Độ-Sanh Giai-Thành Phật-Đạo.
Nầy tất cả Vương-Giả cùng Chư Bồ-Tát lớp-lớp hàng-hàng Hộ -Pháp, Hộ-Pháp Bồ-Tát, trước khi TA Công-Bố hữu-lợi cho các ông, ích-lợi cho các Vị đời nầy đến đời sau khỏi còn nhọc sức tốn công Chư-Phật, làm sáng-tỏ lối đi cho tất cả những bậc tín-tâm tu-cầu giải-thoát. Ta đã Trang-Nghiêm sử-dụng Hạnh, nghiêm-túc Ngôn, phổ-thỉnh Chư-Phật mười phương, nêu rõ lời khai-hoang lưu lại thời nầy cùng thời sau, làm cho tất cả rõ biết rõ thấu rõ tận chính thân-tâm mình phải có BỔN-PHẬN tự độ lấy mình gọi là ĐỘ- SANH, ngoài ra nhiệm-vụ của Chư-Phật, cương-vị Phật có Khai-Hoang vạch lối để cho các bậc tu-đạt, thấu-đạt, tận-đạt lời Khai-Thị Trực-Ngôn mà Giác-Ngộ.
Khi bấy giờ, trong hàng Bồ-Tát đa số đứng lên tán-thán thưa-thỉnh : Ngài vì chúng con đã từng Khai-Hoang Ấn-Chỉ rành-mạch mà chúng con rất khó tường-tận. Ngài vì chúng con khai-ngôn lời thiết-thực, cốt chúng con nhận được, tâm chúng con liền suôi-sẻ tận-tường, chí đặng bền-vững thọ-trì Bảo-Pháp , nếu chúng con thật tỏ như thế liền đặng thoát sanh ra khỏi nhà Lửa Tử-Sanh, chỉ vì chúng con tập-nhiễm do khởi-sanh mà lâm vào thọ-chấp , bởi mộng-tưởng đảo-điên nên bị điên-đảo, nay Thượng-Sư Công-Bố bổn-phận nơi chúng con, tất cả Lý-Sự tu-hành , dù cho Bố-Thí Trì-Giới , Nhẫn-Nhục chăng vẫn bảo-tồn , nung-đúc khai-hoang tận-độ Chúng-Sanh-Tánh, chúng-sanh tập- nhiễm của khởi-sanh, khởi-diệt mật-mờ tối-sáng công-dụng trí-tuệ hóa-giải gọi là tận-độ chúng-sanh nơi THÂM-TÂM căn-bản mình, chớ nên ngỡ là thuyết-giải hoặc minh-thuyết, tỏ-pháp giải-hay, đến khi gặp Cảnh chướng-ngại, gặp khúc bơ-vơ, gặp hồi bất- mãn, tâm ý đảo-điên, tự-mình lấy lời bào-chữa thì chưa hẳn đã tận-độ chúng-sanh giai- thành Phật-Đạo.
Thật cao-quí thay lời công-bố của Thượng-Sư, Ngài trực-chỉ khai-hoang. Các Bậc tu- hành, phải tỏ-ngộ chính bản-thân mình phải bồi-dưỡng chuyên-chính lo tận-độ chúng- sanh, chớ Tam-Tạng Kinh-Điển chỉ khai-thị là trọng-trách Chư-Phật đang làm cùng đã làm, nay các bậc tu cầu giải-thoát, rất cần giải thoát chúng-sanh chưa giải-thoát thời bậc tu lần theo vết chân Phật để giải-thoát căn-nghiệp, cấu-nghiệp, giải-thoát Vô-Minh.
Bạch Thượng-Sư, trước kia chúng con chưa rõ Vô-Minh. Nay nhờ Thượng-Sư ấn-chỉ Bổn-Phận Thân-Mạng nơi chúng con phải thực-hiện, phải tận-lực, phải sáng-soi các căn- nghiệp phân-đối, ngăn-cản để lướt qua từng giai-đoạn ngăn-chấp nghi-ngờ dị-biệt, từ lúc nay chưa đặng nghe, hiện giờ đặng nghe, những điều từ khi nay chưa bao giờ biết nay thực biết, còn những gì chưa biết, mà cứ mãi thờ-ơ lười-trễ, tâm chí phân-vân, nghi- ngờ bỡ-ngỡ, đó chính là Vô-Minh. Té ra Vô-Minh là chưa Tỏ, té ra Vô-Minh là chưa biết cùng chưa nhận chân đặng, nói xong đồng an-tọa.
Thượng-Tọa lặng thinh, Ngài nói : Khá khen các ông biết nhận chân lời Khai-Thị. Lời nhận nầy khó diễn nói chỗ nhận chân, cạn sâu tùy mức độ sanh của mỗi Vị, mà thâu nhận, vì sao ? -Vì nó chẳng khác người buôn Ngọc, người buôn ngọc nầy buôn lâu năm từng trãi. Khi gặp đến Ta, được Ta cho viên ngọc, thời người nầy nhận chân giá-trị viên ngọc Bảo-Châu vui mừng vô kể. Bằng kẻ chưa bao giờ thấy Ngọc nay Ta đưa viên Ngọc, kẻ ấy Tâm-Chí đang còn phân-vân , chưa quyết-định nó là viên ngọc, thì làm sao sử- dụng Ngọc Bảo-Châu? Đối với nhận chân lời Khai-Thị Ngộ-Nhập nó cũng như thế. Lời khai-thị Phật-Thừa không hẳn lời nhiều hay ít, sự giác-ngộ nhận chân vi-diệu vô cùng. Bậc Đại-Thặng đã từng thoát-sanh qua từng lớp, chỉ mỗi một khẽ động đơn-sơ liền tiếp- nhận viên-thông. Còn những Xuẩn-Ngu dù giảng-giải trăm kiếp chưa bao giờ tỉnh-ngộ. Thời Đức Thế-Tôn còn tại-thế, Ngài đưa cành hoa. Ma-Ha-Ca-Diếp mĩm cười sở-đắc, Thực-Tướng Vô-Tướng Tam-Muội Pháp-Môn thì sao?
Thượng-Sư vừa dứt tiếng. Hàng Ma-Ha-Tát đứng lên tán-thán , hay thay cao quí thay. Bổn-Phận và Trách Nhiệm , Phật với Chúng-Sanh , tu-học Phật-Pháp và Pháp Phật mà chưa thấu Duyên-Căn nơi Thân-Tâm hóa-giải chúng-sanh rốt-ráo giai-thành Phật-Đạo, thì dù cho có tu vạn-kiếp, vốn thật ngoài da, chưa hề phá tan Vô Minh đang lộn vòng theo Pháp-Giới thọ chấp, nương trong Pháp-Giới cầu lấy hư-vị được-mất tốt-xấu làm của mình, trưởng-thành chúng-sanh-giới . Chúng con đã từng bước qua, đã từng trải qua. Nhưng ngược lại chúng con chưa hề hay biết, nay đặng Thượng-Sư khai-hoang, chúng con đã từng tu-tập Bát-Nhã, soi tận Pháp-Giới thâm-nhập Pháp-Giới là một vòng- đai sanh-tử luân-hồi, nhưng chưa hề hay biết toàn thân của chúng con đều mang tất cả chúng-sanh-giới, bị Giới ấy nó đè nén bao phủ nên chi chúng con dù cho thật tỏ, thật biết, thật khôn ngoan như Phật mà chưa tận-thấu bằng Phật, là một duyên-căn khó tỏ bày, nói xong đồng ngồi xuống vị-trí.
Thượng-Tọa Thiền-Sư, nhìn hàng Ma-Ha-Tát sáng-tươi bình-dị, nhìn hàng Bồ-Tát Trang-Nghiêm dũng mãnh, nhìn hàng Hộ-Pháp cương-nghị bất-chuyển, nhìn Chư- Thiên Uy-Nghi Cương-Trực, nhìn đến lớp-lớp hiền từ, toàn-diện thứ lớp đều sạch-sẽ.
Thượng-Tọa nói : Khi Chúng-Sanh-Giới điều-động Thể-Hiện Thân-Hình Thân-Mạng của các ông phải chấp-hành theo Giới nó từ LÝ đến SỰ, từ trí-tuệ đến Hạnh-Nguyện, phải tùy theo mức-độ mà khai-trương hiểu biết. Sự hiểu biết kia không ngoài GIỚI mà hiểu biết, các ông chưa bao giờ quá tầm hiểu biết của GIỚI. Nó không khác CÁI-THẤY đang nằm trong cái-thấy chưa bao giờ hiểu biết lý-sự lầm-lạc nơi mình. Chừng nào Tận- Độ Chúng-Sanh-Giới, vược tầm GIỚI ra ngoài cái thấy mới thấy đặng lầm-lạc, đó là một lẽ như-nhiên, nhờ gia công tu-hành mới nhận thấy.
Các Ông cũng nên biết, trách-nhiệm Chư-Phật khai-hoang trực-chỉ nơi Tam-Tạng Kinh- Điển, rất có giá-trị vô cùng toàn-diện lời Kinh thảy đều đưa các ông về với CHÂN- TÔN Chánh-Giác, bản-chất lời Vàng của Chí-Tôn Vô-Thượng giải các ông sạch Nghiệp dung-thông tận-độ chúng-sanh hoàn-toàn giải-thoát, chỉ vì các bậc tu-hành chưa chịu thực-hành, do đó nên chưa bao giờ nhận đặng kết-quả chỗ đến và chốn về của Bảo- Pháp.
THẾ NÀO LÀ CHỖ ĐẾN CHỐN VỀ ?
Thượng-Tọa Thiền-Sư hỏi đến đây, liền có Hào Quang HUỲNH và BẠCH Quang, Từ đỉnh đầu phát-hiện, chạy vòng quanh bảy vòng chung-quanh Thượng-Tọa, xong đâu đấy Địa-Chấn Đất chuyển, các Vị như Sơn-Thần, Địa -Thần, A- Tu-La-Thần, Tứ-Bộ- Thần ứng-trực lễ-bái, Thượng Tọa gật đầu nói tiếp:
Nầy các Ông. Như kẻ làm công kia, còn được Phú-Nông cho dùng hai bữa cơm và ba chén thóc trong mỗi một ngày thay, huống-hồ chi các ông gia-công tu-hành, cố-công tu- tập và tu-trì, từng pháp-môn chư-Phật đã để sẵn mà chẳng hưởng đặng chi sao? Đó là những điều phi-lý quá ưa phi-lý, của kẻ Xuẩn chưa nhận-chân đó thôi.
Các ông hãy nghe đây: Thế nào là Tu chỗ đến chốn về với GIÁC-TƯỚNG Tận-Độ Chúng-Sanh Giai-Thành Phật-Đạo? Hãy nghe đây nhận lấy lời chân thật. Nơi Pháp- môn TỨ- NHIẾP- PHÁP, ĐỒNG-HÀNH-NHIẾP, ĐỒNG-SỰ NHIẾP, BỐ-THÍ-NHIẾP, VỊ-THA-NHIẾP cho đến LỤC-BA-LA như : BỐ-THÍ TRÌ-GIỚI NHẪN-NHỤC đến TRÍ-TUỆ về với THIỀN-ĐỊNH GIÁC-TRÍ , gọi nó là THIỀN-TRÍ .
NƠI THIỀN-TRÍ NHƯ THẾ NÀO ?
THIỀN-TRÍ là một căn-bản Nhiếp-Thâu Đồng -Hành Đồng-Sự-Nhiếp tỏ-thấu nghiệp- chủng, nghiệp-căn, nghiệp-lậu của bậc đồng-đạo, của thân-hữu gia-tộc cùng với thân- mạng mình, có khi dùng Bố-Thí Cảm-Hóa Nhiếp, lúc VỊ- THA ĐỘ-NHIẾP. Tu như thế, đạt như vậy mới là một chốn đến Giác-Chân . Bằng Đồng-Hành, Đồng-Sự hơn-thua, soi-bói, chỉ-trích hơn-thua, cạnh-tranh thù-ghét, thời chưa bao giờ có chỗ đến cùng chốn về. Nếu Tứ-Nhiếp, Đồng-Hành , Đồng-Sự để đồng-hành cho có bạn đồng-hành vui cười làm lối sống, đó gọi là tu Phật-Pháp với Pháp-Phật mà thôi, chưa đặng về với Giác-thâu con đường giải-thoát.
Thượng -Tọa lặng lẽ, nhìn lớp lớp yên-lặng thọ-trì, Ngài nói tiếp: Đó là Bốn-Bộ nhiếp- thâu đồng- hòa tỏ-ngộ. Còn lại Bốn-Bộ dung-thông phá tan chướng-ngại như : Bố -Thí. Trì-Giới. Tinh-Tấn, Nhẫn-Nhục đến thu-đạt Trí-Tuệ Thiền-Định.
TRÍ-TUỆ THIỀN-ĐỊNH là một trí-tuệ dung-thông trùm khắp, chưa bao giờ có bộ óc địa-phương thọ ngã riêng tư cho mình, thật biết thương mình cùng thương khắp thế- gian xuất thế-gian, không còn chướng đối dị-biệt. Trí-Tuệ Thiền-Định là một Trí-Tuệ hướng thượng, trải khắp Tam-Thiên đồng với Như-Lai Thề-Nguyện-Sự. Rất hiếm bậc làm đặng, đang còn thiếu-khuyết.
Tài-Thí. Pháp-Thí và Vô- Úy- Thí nơi Phẩm BỐ-THÍ mà ra.
TRÌ-GIỚI đối với bậc Thiền-Định đã từng tu Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa thời thịnh-trọng quả-vị, quan-trọng Trí-Tuệ và Đạo-Hạnh chính mình. Nên chi có hai điểm mà bậc trì- giới nên làm, ngoài hai điểm nầy chớ nên làm. Thế nào là hai điểm nên làm? Một là Thọ- Pháp lãnh-hội lời khai-thị nên làm. Hai nữa MẶC NHIÊN không nói năng giải nói cho những kẻ Thọ-Ngã, để bao quảng an-nhiên quả-vị, chớ nên phá-giới của những bậc củng-cố đang trì-giới thủ-giới tu-hành.
TINH-TẤN . Tinh-Tấn là một Pháp-Môn toàn-diện cho Ba- Căn , từ hàng Tiểu- Căn, Đại-Căn , đến Tối-Thượng- Căn thảy đều do Công-Đức-Phẩm thành-tựu Công-Năng mới đến TINH-TẤN-LỰC.
Tinh -Tấn-Lực nương vào PHỔ-HIỀN-HẠNH , những vị Đại Bồ -Tát đã từng tu, nhờ Tinh-Tấn mới viên thông chủng-tánh của Tứ-Thánh, mới vi-tế tỏ-rõ từng sát-na vận- chuyển luân-hồi sanh-diệt, diệt-sanh pháp-giới, do thế mà lầm-mê trở thành Chúng- Sanh-Giới. Đại Bồ-Tát và Chư-Phật chỉ hơn nhau tận cùng chưa tận-tận mà thôi.
Pháp-Môn Tinh-Tấn , khởi-điểm từ thuở ban-đầu nơi Thành-Thật-Tâm cùng Thiết-Tha-Tâm, mang lại cho các bậc tu-hành đương thời phát Bồ-Đề-Tâm cầu-Đạo, những bậc nầy thường qua hệ-thống: Mến-Đạo Say Đạo mà Tỏ-Đạo Bất-Thối Bồ-Đề đến Bất- Thối Bồ-Tát tu đạt Đại Bồ-Tát. Những bậc thiếu tinh-tấn khó thành-tựu. Tinh-Tấn kèm theo Nhẫn-Nhục mới có Trí -Tuệ căn-bản soi-sáng dung-thông cùng khắp Thiền-Định gọi là ĐỊNH-TUỆ.
Bằng Tu-Thiền cốt phát-sanh Trí-Tuệ, chẳng bao giờ Trí-Tuệ, dù cho có Trí-Tuệ nơi Thiền chăng vẫn là tập-khởi, loạn-sanh đảo-điên, điên-đảo theo hoài-vọng, mộng-tưởng gọi nó là trí-tuệ chưa hẳn trí-tuệ căn-bản giải-thoát, nên nhớ lấy. Nếu Nhẫn-Nhục, Tinh- Tấn, Trì-Giới hoặc Bố-Thí củng-cố thảy đều là Bố-Thí . Trì-Giới , Tinh-Tấn , Nhẫn- Nhục, tu-cầu Pháp-môn Phước-Báo chớ chưa phải là chốn đến Chân-Tôn Giải-Thoát. Các ông hãy thực-hiện Ba-La-Mật-Đa lìa nơi chỗ tu , đến nơi quả-vị.
Khi bấy giờ hàng-hàng lớp-lớp thảy đều xưng-tán , thảy đều nói-năng bày-tỏ những gì mà đã tu, những điểm nào sai-biệt của từng lớp, từng thứ vị tu-chứng mà chưa bao giờ tường-tỏ, nay mới nhận chân đồng nói lên:
Bạch Thượng-Tọa Thiền-Sư , Từ lúc nay chúng con ngỡ là Nghiệp, tưởng là Vô-Minh, nào ngờ chúng con chưa chịu thực-hiện tu-hành các Pháp-Môn Ấn-Chứng của Phật, miệng chúng con đọc tụng TÍN-HẠNH-NGUYỆN mà chưa hẳn đã Tín Hạnh Nguyện, ý chúng con nói BI-CHÍ-DŨNG , GIỚI-ĐỊNH-TUỆ mà ngơ-ngẩn chưa thi-hành đúng với con đường Chí-Tôn hướng-dẫn, đa-phần tưởng-niệm, đa-số đào-sâu các Pháp hóa-giải nghi-chấp, đưa đến chỗ chấp-nghi Tâm-Sanh Đồ-Chúng . Hôm nay Thượng-Sư khai-thị chúng con Trực-Ngộ mới hay, trên con đường tu-tập, tất-cả Pháp-Môn thảy đều nhiếp- thu, cho đến Đạo-Tràng Nghiêm-Túc thảy đều là Phẩm Trợ-Đạo , mới gọi là: TU LÀ PHƯƠNG-TIỆN GIẢI-THOÁT . Bằng mãi tu, mãi tập, mãi hành, mãi lý, mãi sự mà chưa thực-hành MA-HA-BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA cốt thâm-nhập về với chốn độ Chúng-Sanh làm sao Tận-Thành Phật-Đạo, hiện giờ chúng con mới thật rõ lời Phật Nguyện khai-hoang rằng : ĐỘ HẾT CHÚNG-SANH TA MỚI NHẬP NIẾT-BÀN . Bằng còn mỗi một Chúng-Sanh thề chưa nhập Niết-Bàn.
Các hàng vừa dứt tiếng , thời hàng BỒ-TÁT MA-HA-TÁT xưng-tán. Hay thay cao-quí thay ! Chư-Phật khéo hướng-dẫn , Thượng-Tọa Đại-Sư khéo KHAI-HOANG con đường BA-LA-MẬT-ĐA thâu gồm tất-cả các Pháp-Môn trở về với Tận-Độ Chúng-Sanh . Chính BA-LA-MẬT-ĐA là mạch-lạc trơn liền trăm sông trở về Biển-Giác. Chính THỰC-HIỆN TOÀN DIỆN PHÁP-MÔN là biết CÔNG-DỤNG BẢO-PHÁP giải-hóa tất cả Căn-Bệnh Mê-Lầm sạch-sẽ trơn liền.
Đời nầy và đời sau, nên nương theo lời KHAI-HOANG TRỰC-CHỈ nầy mà Sở-Đắc.
NAM MÔ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA PHỤNG GIÁO
VÔ-THƯỢNG-TÔN ẤN-CHỈ
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI SÁU :
THUYẾT MINH LUẬN ĐƯỜNG TRUNG-ĐẠO-TÔN
Mỗi buổi sáng, mặt trời vừa lên trên đỉnh đèo, có gió mát, không-khí toàn vùng dễ chịu. Mỗi một lúc ánh vàng soi khắp, cây-lá đá chen bóng vàng óng-ánh những hạt sương loang dần do nắng sớm. Có vài ba chiếc xe đang chạy bò đủng đỉnh qua khúc đường cong-cong.
Nhìn dưới chân đèo về hướng Tây, xa xa một khu rừng trảng dựa ngọn núi xanh, lưng chừng núi, có con suối bạc lấm tấm hai bên bờ suối, có những tảng đá tròn-tròn lớn-nhỏ chồng-chất nhau in tuồng đoàn voi đen-đen trắng-trắng, do thế mới gọi là Rừng Vạn- Tượng, Suối Trăm-Voi , sự sắp xếp thiên-nhiên không có chi là lạ, nhưng thanh-thú nhất, rừng Mẫu đất êm, gió lành ít bệnh,lại hiếm loài thú-dữ, chẳng có Côn-Đồ ẩn-núp.
Theo tục-truyền. Từ xa-xưa, chưa rõ Niên-Hiệu thứ mấy. Có Nhà Võ-Sĩ-Đạo ẩn-thân tại khu-rừng nầy với hàng trăm môn-đệ, tập-luyện ở-ăn trong Tòa Cổ-Miếu, hiện nay sân nền Cổ Miếu còn yên, nền có những phiến đá lớn dài, mỗi phiến đá có thể vài chục người mang đến đào lót nền Cổ Miếu. Còn dòng suối trăm Voi, do các môn đệ lúc luyện tập mang lên sắp xếp dọc theo bờ suối, lâu ngày phong sương gió cuốn, những tảng đá trở thành hình tròn nghe lời nói, những bậc đứng nhìn cũng có thể tin được lời truyền tục trên là đúng.
Đến nay Nhà Thiền-Sư Hiền-Triết, Thiền-Sư đã từng dẫm nát, đã từng trãi qua tứ- phương năm-hướng chung hộp Đạo-Đời, Đời-Đạo, qua chẳng biết bao trở-lực cùng tỏ rõ thế-nhân, tự tạo lấy hiểu biết thật biết đến quá biết về với thân-mạng, chẳng còn nói hai chữ hơn-thua hay được-mất, nhà Thiền-Sư Hiền Triết hay nghĩ đến hai câu:
Vết chân dẫm nát Nhân-Thiên-Giới
Lưu lại Trần-Gian nửa đoạn đường
Họ còn nhớ, tất cả mọi người vẫn còn nhớ câu chuyện của Cụ-Già kể lại. Đầu tiên Thiền- Sư đặt chân đến vùng đất địa-bàn, khu rừng Vạn-Tượng, trong buổi sáng tinh- sương. Ngài đi trên chiếc xe chuyên-chở hành-khách, xe bị hỏng giữa đèo nửa đêm, sáng tinh-sương xe sửa-chữa xong, mời hành-khách lên xe, đến lượt mời Thiền-Sư, Ngài lắc đầu, tay xách chiếc đãy lặng-lẽ đi dọc xuống đèo, Ngài đi ngang qua vùng đất trũng, vùng nầy dân làng trồng-trọt, gặp Cụ Già chào bái Thiền-Sư, hai bên chào hỏi nhau, cụ già vui vẻ, hướng-dẫn. Sau cụ già mời Thiền-Sư về nhà cụ yên nghỉ, Thiền-Sư chấp- thuận.
Ngày tháng trôi qua, Thiền-Sư trụ-trì rừng Vạn-Tượng, dân làng ái-kính, họ hay phát sanh rất nhiều về Huyền-Thoại về Ngài, từ chỗ đồn-đãi nhỏ, đến nơi đồn-đại lớn. Có lắm bậc nghe đồn, đến bái-lễ chiêm-ngưỡng van-vái trước khu rừng, xong ra về. Có Bậc vào tận khu rừng, đến chòi lá, không gặp Thiền-Sư, họ đặt trên bàn lương-thực, lễ-bái xong ra khỏi khu rừng, lòng phấn-khởi. Có Bậc đã đến dòng suối Trăm Voi, Thiền-Sư đang ngồi êm-lặng trầm ngâm suy-ngẫm, Bậc kia chưa nhìn thấy, lúc Thiền-Sư đứng lên, họ kinh-hoàng lễ-bái, xin thọ-giáo huấn-từ, Thiền-Sư khai-thị vài điều yếu-điểm, mừng-rỡ bái-từ Thiền-Sư.
Lúc ra về mới nhận chân được lời chỉ-dạy của Thiền-Sư, đa phần đã từng kiến-diện với Thiền-Sư thảy đều công-nhận Ngài có những cử-chỉ an-lành, tánh-tình bình-dị vui-vẻ. Ngài thường mặc y-áo màu sắc đồng-hợp với màu đá trăm voi, cho nên những bậc ít lưu- tâm khó nhìn gặp Ngài đặng. Khi Thiền Sư đến trụ-trì rừng vạn-tượng, thấy Cảnh hợp Tình, Tình với Cảnh thích-thú nên chi Ngài nhất định an-trú, nhất-định kiểm- chứng Tổng-Trì, vì Ngài tận thấu trọn vẹn, nên Ngài nói:
Dừng chân lập lại Bản-Đồ nghìn xưa.
Thiền-Sư chẳng cầu tỏ, những gì về thoát Lý, thoát Chân, thoát Vọng, thoát Khởi, thoát Tập, thoát Nhiễm. Những điều ấy, đối với Thiền-Sư thảy đều vô-lý. Thiền-Sư cũng không lấy chi làm lạ, chỗ tư-tưởng suy-diễn, luận-diễn, kiểm-chứng hay Quán chúng soi, điều-hành vọng hoặc phân chia tĩnh nơi thân-mạng, trí-hóa soi, hàng ngày, dù cho Thiền Sư không bao giờ KHỞI nó vẫn DỤNG, chưa bao giờ MUỐN, nó vốn HÀNH. Những điểm nầy quá ư quen thuộc đối với Thiền-Sư.
Vì sao? -Vì đúng thời-khóa, nó vẫn THOÁT, đúng lúc an-nhiên nó lại SUY… Đúng nơi hộp-hóa nó TỰ-QUÁN sáng-soi, còn nơi phân chia TĨNH-TỌA suy-ngẫm Chân-Nguyên mục-đích nơi Thiền-Sư nói lên lời cao-đẹp, vạch rõ đường lối CHÍ-TÔN PHẬT-THẾ, lúc Chí-Tôn còn tại thế đã thuyết-minh mà tất cả chưa hiểu đặng làm cho CÁN-CÂN tu học chênh lệch hai bên, mất chân giá-trị Bảo-Pháp lời Vàng tâm-huyết.
Thiền-Sư đã từng Trực-Giác Tự-Ngộ , nó không có chứng-từ ngôn-thuyết, nó tận-thấu lời Chí Tôn trải qua ghi-chép Tam-Tạng Kinh-Điển không thiếu sót dư-thừa, vẹn-vừa từng lớp-lớp tu-học. Kinh Điển nầy có hai điều cần phải nhắc-nhở cho tất cả những bậc tín-tâm tu-học. Thứ nhất kinh-pháp mãi luân theo Chư-Vị Bồ-Tát cốt nhắc-nhở, thứ hai đưa đón những bậc phát-tâm. Do hai điểm trên mà Thiền-Sư ưa-thích nhất. Ngoài ra Thiền-Sư chưa bao giờ thêm bớt đường hướng Chí-Tôn. Thành-thử TĨNH-TỌA Suy-Ngẫm không ngoài Chân-Nguyên chủ-đích nơi Thiền-Sư cả.
Sự quen-thuộc, quá ư quen thuộc đối với Thiền-Sư. Mỗi buổi sáng tinh-sương, Ngài ngồi bên dòng suối, an-nhiên thanh-thoát, Kiểm-Chứng Tổng-Trì tất cả, cùng tất cả kiểm- nhận Ngài đã từng qua những khúc eo nào trên con đường tu-hành. Lúc Khai-Hoang đặng, Thiền-Sư miệng lẩm-bẩm tán-thán, có khi Ngài xoa đầu đập vế vun vai in tuồng nắm bắt Bảo-Châu Ngọc-Bích. Có một hôm Thiền-Sư đứng lên đi vòng bảy vòng dọc ngang bờ suối, Ngài bước trên từng tảng đá hình trăm voi, xong đâu đấy tĩnh-tọa an- nhiên kiểm-trì con đường Trung-Đạo.
Thiền-Sư tĩnh-tọa rất lâu, khuôn mặt Ngài thay đổi từng lúc, có khi Ngài gật đầu hay mĩm miệng cười in tuồng thỏa-thích, Ngài nói: Tuyệt-tác thay, an-lành thay Chí-Tôn Vô- Thượng. Kể cả hàng bá- thiên vạn triệu thế-kỷ, cho đến ngày nay, Thế-Giới với con người sống trên mặt đất liền, cho đến Tiên-Thần Thánh-Hóa hay Thánh-Triết, Thánh- Nhân, hoặc giả nhà Thiên-Tri Vĩ-Đại lần lượt ra đời, ngự-trị đời chẳng biết bao thời- cuộc đổi thay, thay đổi di-chuyển không ngừng, mấy ai là Bậc NHÂN THẬP-TOÀN, từ nơi ƯU chỗ KHUYẾT nó không ngoài TƯƠNG-ĐỐI CÓ-KHÔNG là hai con đường lựa chọn mãi miết đuổi theo xây lâu đài mộng đẹp trên lối sống tương sanh con đường tương đối, cho là Được-Mất Có-Không vinh-dự, thật đáng buồn cười thay hư-vọng ?
Thiền-Sư suy-tưởng đến đây châu mày nói:Kẻ ngu-xuẩn nhất chính TA. Kẻ hư-vọng tham cầu mang Phật-Đạo vào con đường lệch-lạc mà công-nhận tu-cầu Giải-Thoát Môn. Ta hiếu-kỳ lựa-chọn một trong hai điểm THANH-THÔ THIỆN-ÁC. Ta ngỡ rằng THANH là Phật Đạo. Thiện tạo Giác-Chân tu lấy một chiều, còn một hướng Ta đành vứt bỏ, may-mắn thay, nếu Ta huân-tập nung-đúc Thiện-Căn, Ta phải lầm tu nơi Phước- Báo. Bằng thâu nhận Thanh-Hương có lẽ lúc hình-thành sa vào Tiên-Đạo thì sao? Tuyệt tác thay! Hôm nay Ta mới thấu nhận con đường TRUNG- ĐẠO -TÔN chính một con đường duy-nhất, thâu nhận tất cả hai bên. Thiện-Ác Có-Không mới tu đạt tuyệt- đối thoát khỏi tương-sanh mới điều-hòa không chênh-lệch. Té ra Phật-Đạo Tâm- Chí dung-thông, Tương-Đối chốn lầm-than, Tuyệt-Đối nơi Giải-Thoát, lành-mạnh khỏi Dị-Phân nào ngăn-cách Dị-Biệt. Nơi Kinh-Điển đường Trung-Đạo mà Đức Thế-Tôn đã ấn-chỉ trung-thời Hiền-Kiếp, đường-hướng Chỉ-Đạo cho Tín-Chúng phải thực-hiện hai bên, phải đồng-hóa Tương-Đối mà sở đắc Tuyệt-Đối mới mong Giác-Ngộ. Nó cách xa Bá- Thiên vạn-triệu thế-kỷ trước, nó gần nhất đối với thế-kỷ Hai-Mươi nầy, thế mà chính Ta đã lầm-lẫn, thời làm sao các bậc tu-hành tránh khỏi sự lầm-lạc như Ta?
Hay thay! Cao-quý thay Chí-Tôn Vô-Thượng! Ngài chỉ đạo TRUNG-TÔN, chớ nên BỎ- LẤY chung khắp sự lầm-lạc tương-đối, phải tương-tranh, thiếu-thừa sa đọa cùng điều đau- khổ do nơi DỊ-BIỆT nên Bất-Đồng, do chỗ CÓ-KHÔNG sanh ra THAM VỌNG, do GANH-TỊ phải HỒ-NGHI, sự đen-trắng, trắng đen hai con đường Sanh -Tử.
Giờ nầy phút nầy, Ta mới nhận được Đức VÔ THƯỢNG CHÍ- TÔN, chính bản-thân nơi Ngài vốn không tự-hào mình đã phát-minh con đường Trung- Đạo, nên chi Ngài tuyên -thuyết con đường nầy đã có từ bá thiên vạn triệu thế- kỷ Chư- Phật đã từng nói ra, ngày nay Ngài chỉ là bậc thừa-hành thuyết-ngôn lại. Còn Ta, Ta đứng vào phương- diện kiểm-chứng thân mạng ta. Nay Ta tự thán lấy Ta là kẻ Xuẩn thứ ngu mà học đòi Tri-Kiến, dù Ta có Tri-Kiến chăng, nơi Tri-Kiến của Ta đều khiếm-diện, chỉ có mỗi một bên Thiện-Chí, Thiện-Chân,Thiện-Cảm, chưa hòa-đồng Thiện-Ác- Chí, Thiện Ác-Chân, Thiện -Ác- Cảm để tỏ-thấu hai nơi chung về với một tuyệt-đối Chân-Như Tri- Kiến.
Thiền- Sư suy-ngẫm đến đây, Ngài thở dài nhìn bóng cây ngã bóng, Thiền-Sư đứng lên bước đi từng bước một, Ngài nói: Ta ngu, chắc hẳn từ vô- thủy đến nay tất cả con người thảy đều ngu hết, cho đến Chư -Tiên -Thiên vẫn phải mờ mê, dù có nói ra tất cả thảy đều cho Ta là kẻ đi CHĂN-BÒ thuê- mướn, cổ-truyền Phật-Đạo, nào có ngờ đâu. Đức Thế -Tôn cùng TA có một CHÍ-NGUYỆN cứu-vãng quần sanh hãy tu vào con đường Trung-Đạo đoạt lấy TUYỆT-ĐỐI TƯƠNG ĐỒNG mà Chung-Hoàn CHÁNH-GIÁC.
Sự kiểm-chứng nơi Thân-Mạng hình-hài Trí Óc của Ta, nó có đầy đủ suy-ngẫm Tịnh, Bất-Tịnh, tạp-khởi từng yếu-điểm hoặc giả lang-bang vu-vơ mộng-tưởng ảo-tưởng trừu- tượng, ngoài ra nó không ngoài cái-sống để tưởng, chốn đến cần phải giải, nơi Nghiệp cốt đặng Hóa. Ta cùng thân-mạng tranh-đấu nhau, lăn lộn nhau, đập phá nhau chưa từng thấy, chính Ta đặng thấy. Khi nhận đặng con đường Trung-Đạo để mà tu. Ta phải tu từng bước một, từ giai-đoạn nầy đến giai-đoạn nọ phải gìn-giữ cho tròn, gặp khi Bất- Tịnh lòng nơi ta Hỷ-Xả. Đến một ngày nào, chính Ta mới hay lời Chí-Tôn nói: TỪ-BI HỶ-XẢ là mục-tiêu nầy lòng Ta tự-sanh BÁC-ÁI đồng-hóa Nhân-Sinh.
Lạ thay! Tuyệt-tác thay bước đường TRUNG-ĐẠO thâu-nhận Tịnh, Bất-Tịnh dung- thông, nếu chưa thực-hiện thì làm sao thấu đặng chỗ Từ-Bi Hỷ-Xả để lúc năng-phân chướng-đối đồng-hóa Chân Như? Khi những bậc tu TỰ-TÁNH TỎ-TÁNH mới nhận thấy con đường TRUNG ĐẠO là một con đường Quán-Chúng biết lỗi nơi chính mình mà hoan-hỷ tha-thứ lỗi lầm cho kẻ khác, biết đặng Nghiệp mình mới nhận được căn- nghiệp kẻ gần nhau. Tỏ-thấu Tánh-Chất mình mới thâu-nhận được Vũ-Trụ Hư-Không Như-Lai Nhãn-Tạng, hòa-hộp chung khắp tận-tận ngọn-ngành mà Chánh-Giác. Vì sao? Vì Đời muôn mặt, đất có muôn nơi, còn Thiện-Ác thì cùng khắp. Bậc toàn-chân toàn- thiện phải là Bậc Quản-Lý toàn-diện, thấu-đạt hai nơi, tỏ-tường Vũ-Trụ, đồng-đẳng Tánh-Chất di-chuyển gió mây trọn vẹn mới điều-ngự khỏi lầm-mê hoàn-toàn Chánh- Giác.
Thiền-Sư suy-ngẫm đến đây, Ngài bèn chỉnh đốn y-áo, quây mặt hướng Đông lễ-bái bảy lần, Ngài âm-thầm thưa gởi : Bạch Thế-Tôn Vô-Thượng, Ngài chính Bậc Chí-Tôn vuông- tròn chung khắp, đồng-đẳng bá-thiên vạn-triệu, bá-thiên vạn-hạnh, vô-lượng vô- biên Công-Đức-Phật về với đẳng-đẳng Tôn Chánh-Giác, do đó cho nên dưới mắt Phật thảy đều đồng-đẳng Như-Lai, Vô-Phân-Biệt-Tính, Vô-Thọ-Chủng-Lai, Vô-Hoàn-Thể- Giác, Vô Xứ-Xứ-Trụ, nay con xin kiểm-chứng thừa lệnh thuyết-minh, giúp đời nầy, đời sau nương Trung-Đạo-Tôn tu đoạt Giác-Chân trùm khắp.
Cao-quí thay dưới mắt Phật đồng-đẳng Quân Minh. Bậc Chánh-Giác là bậc toàn-diện chư Phật hiện toàn thân, từ một hơi thở cho đến lời Vàng Minh-Thuyết thảy đều hiện Phật, đều xưng-tán sát-na Vi-Trần-Phật, không còn hai tướng, chẳng có chỗ kiểm- chứng hai bên, Ngài còn Ấn-Chỉ nơi Kinh-Pháp Vạn-Hiệu Vạn-Phật.
Đối với Phật-Đạo. Một Vị đã từng Trụ-Trì từ bá-thiên vạn kiếp. Đến kiếp hiện-tại đặng Khai-Thị, liền Ngộ-Nhập Vô-Thượng Chánh-Giác, đồng-đẳng Vị Cổ-Phật hàng nghìn xưa. Bằng tu đứng, tu nằm, tu ngang, tu dọc, chưa thực-hành Trung-Đạo, chưa bao quản vạn triệu để nhiếp thâu, chỉ tu-trì một Pháp ưa chuộng, còn vạn-pháp y nguyên, vẫn đặng xưng-tán một hiệu-danh Phật đó.
Đức Bổn-Sư chung nạp khiêm-toàn đầy-đủ bá thiên vạn Phật trên Chánh-Giác. Khi Ngài thuyết-minh Vạn-Phật-Kinh thảy đều do Công-Đức Vô-Lượng Vô-Biên nhiếp-độ thành Phật danh-hiệu. Mỗi khi Đức Bổn-Sư chứng-tri Thành-Đạt là Phật xứng danh, gọi là THƯỜNG-TINH-TẤN Danh Phật. BẤT-THỐI-CHUYỂN DIỆU-QUANG-PHẬT, không ngoài hai tướng chung khắp Chánh-Giác Vô-Thượng.
Hay thay ! Vi-diệu thậm-thâm thay ! Tất cả đồng danh thảy đều Công-Đức Vô-Lượng. Tất cả Tràng-Phang Bảo-Cái Bảo-Châu thảy đều an-nhiên vô-lượng Công-Năng mà thành-tựu danh-hiệu. Sự kết-quả không ngoài con đường tương-đối trở về với tuyệt-đối của Trung-Đạo –Tôn Phật-Thừa thành-đạt. Chính TA nơi Ta con đường tu-cầu Giải- Thoát vẫn đồng với Lý Trí các bậc tu-hành tín-tâm nhất-điểm. May thay, Ta thực-hiện hòa-hợp, thực-hành tự-quán qua nhiều trở ngại nhiếp thu tu cầu Giác-Tướng về với Như -Tướng Viễn -Thông, tận-thấu mà tường- tận PHÁP-THÂN tỏ rõ nguồn phát hiện Thị-Hiện Sát-Na-Phật, Vi-Trần-Phật, Thanh-Quang, Huỳnh-Quang Phật. Mỗi Chư Phật Thị-Hiện thảy đều do Công-Đức Vô-Lượng nơi Ta, chính Ta không ngoài ai là Bậc đã xây-dựng cho Ta, nếu đời nầy hoặc giả đời sau, lãnh-hội đặng lời Ta đã nói trên, Thực-Hành Tự-Lực cùng Tha-Lực, Tự-Lợi và Tha-Lợi thời đồng-đẳng sự việc Chư- Phật đã làm nay Ta phải làm, Chư-Phật đã khai-hoang đường hướng cho Ta, nay Ta phải có nhiệm-vụ Tha-Lợi cho những bậc khác, để báo-ân Tam-Thế-Phật, gọi là Tự-Độ cùng Tha-Độ.
Thiền-Sư vừa nói đến đây. Ngài ngữa mặt nhìn hư-không in tuồng bày-tỏ, sự lạc-lõng nhận chân với con đường Tri-Kiến quá khó, mỗi một quan-niệm nhỏ sai, xa-xăm vạn- dặm cách-biệt nhau với con đường giải-thoát vô-tận cùng, duy nhất chỉ có hóa-giải nương theo Trung-Đạo bước lần TỪ-BI HỶ-XẢ liền trơn, Được-Mất không mừng hoặc Buồn-khổ, hơn-thua chẳng lấy đó làm chứng-từ. Có hay không xem đó nó đã từng lai- vãng. Thuận-Nghịch do lòng mong muốn quan-niệm mà ra, Phải-Trái chưa hợp tình, chưa hợp-lý với mỗi con người. Ta thật biết, còn biết hơn dòng đời trôi-dạt. Các bậc tu- hành hay phân-đối mà mãi-mãi không xong chạy theo hàng Nhị -Thừa tu-chứng , làm thế nào để minh-tỏ con đường Trung-Đạo Nhất-Tôn , sở-đắc Pháp-Thân vẹn-toàn Chánh-Giác ? Dù Ta có kêu gọi khuyến tu có hàng vạn lời kêu gọi, nó chẳng khác nào Tam-Tạng Kinh-Điển lời Vàng Vô-Thượng Chí-Tôn đã từng phơi-bày hơn hai nghìn năm, mấy ai đã xem đến???
Thiền-Sư Hiền-Triết vừa suy ngẫm thuyết-minh xong, quay về chòi lá, dòng suối đá với trăm hình con Voi êm-lặng, sỏi đá lôm-chôm cây rừng mát-mẻ, ánh nắng vàng rạng-rỡ, lá rừng phe-phẩy như chào đón Thiền-Sư .
NAM MÔ TRUNG-ĐẠO NHẤT-TÔN HỘI-THƯỢNG
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI BẢY
MINH THUYẾT TỰ ĐỘ
Tự-Độ cho đến Độ-Tha là một sự hiếm. Bậc đã tự-độ là bậc Đắc-Pháp, còn bậc Độ-Tha là bậc Chánh-Giác hoàn-toàn, do đó quí hơn Ngọc Bảo-Châu, khó gặp, khó được bậc nầy chỉ-giáo tu-hành. Bậc Tự-Độ đã từng biết cứu-chữa bệnh mê-lầm bản-thân mình, nương nhờ Tha Độ giúp-đỡ, bậc Độ-Tha là Vị Đại Lương-Y đang chữa bệnh hàng trăm nghìn kẻ khác, bậc nầy không mang lấy một bệnh.
Nói đến Bậc Tu-Phật, bước qua con đường tu cầu giải-thoát, rất khó nhận-định trong lúc họ đang tu, đến giai-đoạn Đắc-Pháp tỏ rõ nguồn-gốc mới thật tường-tận khác nhau trên bước đường Tu-Phật.
Những Vị Tu-Phật, tu như thế nào thảy đều kết-quả như thế ấy, vì Phật-Đạo Độ-Tha từng lớp-lớp theo sở-nguyện mỗi người, tu nhỏ bé hưởng đặng Phước Điền, tu qua từng lớp đặng Phước-Báo Nhân-Thiên, tu nương nhờ nơi Công-Đức Công-Năng qua các trở- lực bối-cảnh Tự-Tánh Tỏ-Tánh vào con đường tu cầu Tri-Kiến, hoàn mỹ Hạnh-Nguyện đến Giải-Thoát-Môn.
Bậc Tu-Phật cần kiến-tạo Thiết-Tha Thành-Thật Tâm làm mức tiến. Đạo-Đức căn-bản thân-tâm làm Quả-Vị Chứng-Tri, lướt qua vạn-pháp Thuận-Nghịch thảy đều không mắc-miếu là con đường Giải-Thoát.
Bằng những Vị Tu-Phật y-kinh nương vào Kinh-Pháp Tam-Tạng Kinh-Điển chăng chưa tỏ rõ Thể-Tánh Vạn-Pháp, chưa sáng soi Vô-Minh hóa-giải, chỉ tu-cầu Tha-Độ, nhất- tâm đảnh lễ, tha-thiết giải-thoát, chưa bao giờ giải-thoát. Vì sao? Vì chưa hay biết chi để cứu chữa bệnh mê-lầm làm sao giải-thoát? Nơi căn-tánh tu-cầu Bị-Biết nên chi thân-tâm hàm-chứa Y-Kinh. Đức Thế-Tôn Ngài mới nói nơi Kinh: ĐẠI-PHƯƠNG-TIỆN PHẬT BÁO-ÂN-KINH. Dù cho tu-cầu Kinh-Pháp đến lúc thành-đạt vẫn là thành-đạt Báo-Ân- Kinh.
Tu-Phật với con đường Phật-Đạo, những bậc xem kinh liễu-nghĩa kinh cũng chưa chu- đáo với tinh-thần Kinh-Pháp nơi Chí-Tôn-Phật, vì sao ? Vì thứ-vị của từng lớp tu hành nhận-định nghĩa kinh nơi mình mà liễu-nghĩa, cho đến bậc xem Kinh trực-nhận phải nương theo tu-hành đến thời-gian trực-ngộ, may ra còn thâm-nhập nơi Kinh-Pháp mà thôi.
Bậc Tu-Phật nương nơi vạn-pháp cốt tỏ-tánh vạn-pháp mà trực-ngộ, do lẽ ấy nên chi Phật dạy đồng-thời khuyến-khích các bậc tu-hành chớ nên Trụ-Chấp, nếu trụ-chấp đứng yên không bao giờ trực-ngộ, vì vậy xem kinh liễu-nghĩa, cấp nào lần hiểu theo thứ-vị ấy chớ nên cho đó là đặng, mãi kiên-trì tu có ngày phải đến trực-ngộ, cho đến nỗi thời Đức Thế-Tôn còn tại-thế. Ông Xá-Lợi-Phất, gặp Ngài Duy-Ma, nói nơi Phẩm Tư-Nghị về vấn-đề cầu Pháp như sau:
Nầy Ngài Xá-Lợi-Phất : Cầu Pháp chớ nên đứng yên mà cầu, vì sao ? – Vì Pháp là TỊCH-DIỆT, nếu thật hành Pháp Sanh-Diệt là tu-cầu sanh-diệt, không phải cầu Pháp. Pháp vốn không nhiễm, nếu nhiễm nơi cầu-pháp, cho đến trực-thuộc Niết-Bàn, đó chính là nhiễm đắm không pháp pháp tu-cầu. Pháp không chỗ làm, nếu làm nơi Pháp đó là tu- luyện, là chốn làm không phải cầu-pháp. Pháp không Thủ-Xả, nếu Thủ hoặc Xả đó là thủ-xả không phải cầu pháp. Nầy Ngài Xá-Lợi-Phất: Nếu bậc cầu Pháp, đối với tất cả Pháp không cầu mà đến.
Đối với tu-cầu trên con đường Phật-Đạo, duy nhất tạo Công-Năng Tinh-Tấn Bi-Chí-Dũng, miễn sao có đủ công-năng lãnh-hội, có đủ Bi-Chí-Dũng thực-hành siêng-năng tinh- tấn tu-hành mãi mãi không ngừng mà sở đắc, nó không khác mấy với: HỒ SEN kia, cây sen đủ sức nhiếp-thu dung-dưỡng tất cả chất Bùn, từ Tịnh đến Bất Tịnh, Từ Phật-Pháp ly Phật-Pháp, từ nơi thơm tho cho đến chỗ hôi tanh không nhiễm trước, gọi là gần Phàm-Phu không mất Thánh -Ý đặng Phi- Đạo Suốt- Đạo Viên -Thông, chẳng lựa Sắc -Thái Tướng- Hình, không vì chỗ thích cùng chưa thích- thú lấy mỗi một Chất nào mà nhiễm- trước cầu Đạo. Pháp Tịch- Diệt cũng thế.
Các bậc Tu-Phật đem so, tinh-thần của hai vị đương thời Lục-Tổ Huệ-Năng làm nơi Tài- Liệu Tu-Phật cốt hiểu rõ một trong hai hướng tu như sau:
Thời Huệ-Năng Lục-Tổ với Ngài Thần-Tú đồng tu dưới sự chỉ-đạo của Ngài Ngũ-Tổ Hoằng-Nhẫn. Đứng về Ngài Thần-Tú thì Kinh-Pháp Liễu- Nghĩa, vai thế của Ngài Lục- Tổ Huệ-Năng Chơn -Tâm Trực- Ngộ Đốn-Giáo. Khi bấy giờ Ngài Ngũ- Tổ mở cuộc Đàn- Thi, bằng Khai-Hoang lời Kệ giải. Nay trích hai bài kệ để các bậc tu-hành nhận- định hai đường hướng quan-điểm để tu như sau:
– Ngài Thần-Tú kệ :
– Ngài Huệ-Năng kệ :
Vốn không cây Bồ-Đề
Cũng chẳng Đài gương tỏ
Vốn không có vật gì
Chỗ nào đóng bụi lọ?
Một trong hai Vị, mỗi Vị tu theo mỗi thế, ngài Thần-Tú đứng về TIỆM, Còn Ngài Huệ- Năng thuộc về ĐỐN, Ngài Thần -Tú tu nơi Đạo-Hạnh, ngài Huệ-Năng về Giác- Chơn Thể -Tánh Tịch-Diệt nơi Vạn-Pháp. Một bên dụng Tướng tỏ Chơn, còn một bên truy chơn tỏ- tánh. Rốt cuộc lại Ngài Lục -Tổ vẫn thực-hành Đạo-Hạnh TƯỚNG cùng CHƠN. Phần ngài Thần-Tú Tầm CHƠN hợp TƯỚNG, đó chính là một con đường duy- nhất Phật-Thừa không hai lối.
Sau khi Kệ giải, Ngài Ngũ-Tổ trao Bình-Bát cho Ngài Lục-Tổ Huệ-Năng, Ngũ-Tổ dặn-dò đi về hướng Nam khai-Đạo. Ngài Lục-Tổ bái thưa : Bạch Ngài , lúc con mê lầm Ngài độ, nay con trực-ngộ, con phải tự-độ lấy con. Ngũ -Tổ gật đầu, Ngài Lục-Tổ ra đi, về hướng Nam khai-đạo gọi là Nam-Tông Đông-Độ, còn Ngài Thần-Tú gìn-giữ Bắc-Tông.
Đến nay Đạo-Phật đã trải qua hơn hai-mươi thế-kỷ thay đổi nhiều sự sai- lệch lớp-lang. Phái Thiền-Tông ra đời cấp tiến, những bậc tu hành tinh-tiến lần-lượt thấu rõ lối tu, một là tìm Chơn-Tánh để tu, hai rõ đặng Pháp-Tánh biến diễn, ba là tỏ đặng Bổn-Tánh Tịch-Diệt nơi Vạn-Pháp tu-cầu liền liễu-ngộ. Bằng những kẻ tu nơi thích-muốn, tu đắm cơn-thiền, tu cầu vạn cảnh khó thành-đạt, sự lầm-lạc của Phái Thiền-Tông chưa hẳn là nhỏ.
Đứng về phái Chùa-Chiền, tùy theo bậc Chỉ-Đạo, không ngoài Đốn-Tiệm, Hiển-Giáo cùng Mật-Tôn, nơi căn-bản vẫn có Mười-Hai-Tông hình-thức Đạo-Phật nguyên-vẹn, nhưng trên con đường tu-tập chưa rành-mạch Tôn-Chỉ Mục-Đích hướng-dẫn để tu, rất hiếm bậc thực-hiện pháp-môn tu, vì sao? -Vì đa số ưa-chuộng những pháp-môn nào không tu mà chứng do đó nên mới mất cơ-bản chân-truyền. Trái lại có bậc chuyên-trì tu-tập lại cố- định đứng yên chuyên hành đọc-tụng thành-thử lạc-pháp.
Nếu tất cả những bậc tu-cầu đến con đường Tri-kiến thời hãy tu. Một trăm môn trở về với một môn liền thành-đạt. Bằng tu đúng một môn tu cầu mỗi một môn chưa bao giờ thấu-đạt. Vì sao? -Vì Tu-Thiền tu-cầu chăng vẫn là Tu-Thiền, chớ chưa đủ môn giải- thoát. Tu Hiển-Giáo hiểu biết nơi Hiển-Giáo, tu-cầu Hiển Giáo, chớ chưa đủ môn để giải- thoát. Dù tu Tịnh-Độ vẫn Tịnh-Độ chớ chưa đủ môn để giải-thoát. Dù Mật-Tôn Thiên-Biến vạn-hóa đi nữa chăng,vẫn là Mật -Tôn, chớ chưa đủ môn giải-thoát. Dù cho Đạo-Hạnh tu- trì chăng, vẫn là Đạo-Hạnh, chớ chưa đủ môn để giải-thoát. Phật-Đạo tỏ rõ từng môn của từng môn nên mới chỉ-dạy Bồ-Tát thực-hành tu Bát-Nhã chung gồm tất cả các Môn là Tri-Kiến Giải-Thoát.
Đạo-Phật với con đường Giải-Thoát cần có Trí-Tuệ căn-bản cốt giải mê, có lập-trường kiểm-chứng sáng soi về hoài-vọng, tự-ngã kiêu-căng sanh nghiệp-thức, nghiệp-lậu cùng kiết-sử cố-định, khỏi nơi tu-hành cuồng tín, trí-tuệ căn-bản nó hóa-giải quan-niệm lầm-mê qua từng giai-đoạn lầm-chấp được sạch-sẽ mà Chánh-Giác. Nơi Chánh-Giác là chốn Toàn-Thiện, Toàn-Chơn chung gồm Vạn-Hạnh mới gọi là Toàn-Giác.
Nơi Tu-Phật tu-cầu toàn-chơn, toàn-thiện phải thực-hành Tự-Lợi, cùng Tha-Lợi, tự-lợi tha-lợi là một con đường sống chung vừa có lợi giữa bậc tu hành và người lãnh-hội Phật-Pháp để tu. Khi bậc không vì quyền lợi tham- lam để tu, không vì Cá-Tánh Cá-Nhân cầu Đạo đem nơi hiểu biết mình đã từng có lợi, cứu-giúp cho kẻ mê-lầm sống trong Ngũ-Dục thoát ra khỏi Ngũ-Dục, đó chính là Tha-Lợi chính mình đặng lợi.
Những bậc Tu Phật đã từng phát tâm Tự-Lợi Tha-Lợi để tu rất hiếm, những hàng nầy đã sẵn có Căn Tánh từ hàng nghìn xưa nay vì từ tâm cứu giúp cho tất cả đặng lợi, còn chính mình có lợi không đáng kể. Nếu các bậc tu hành đã từng tu trên con đường: Phật Pháp Bất-Ly Thế-Gian-Giác sẽ nhìn thấy có hàng ngàn bậc tu hành rất hiếm bậc chuyên khoa truyền-giáo. Sự truyền-giáo có nhiều tư-cách có nhiều thuyết-ngôn hay minh- thuyết. Bậc truyền giáo-thuyết ngôn gây cho tất cả Tín-Đồ xây-dựng Phước-Thiện Từ- Ngôn, còn bậc Minh-Thuyết nằm nơi căn-bản Tỏ- Tánh con đường hóa-giải. Ngoài ra những bậc truyền-giáo bằng Tà-Thuật, Ảo-Thuật Thần-Linh phù-pháp chưa hẳn là bậc truyền-giáo Phật- Đạo, đó gọi là Ngoại-Giáo.
Tự-Lợi cùng Tha-Lợi là một cán-cân rất tế- nhị làm cho tất cả những bậc tu-hành chuyên-chính sai-lầm vì nó, đối với bậc tu-hành đa phần thảy đều rõ biết Tự-Lợi Tha- Lợi, nhưng thực-hiện chưa hẳn đã đúng theo chỗ biết của mình. Vì sao? -Vì trên đã nói: Pháp Tịch-Diệt lời nguyện từ nơi Chân-Thành Tự-Nguyện, trong lúc hiện tại chăng nhưng khó thực hiện. Vì Vạn-Pháp vốn di chuyển không ngừng, như bóng cây dưới nước, như tia-chớp Chân-Trời, từng Sát-Na sanh-diệt, lời nó hay phát nguyện đều chung thể-tánh vạn-pháp vẫn phải diệt-sanh, khó mà thi-hành theo nguyện. Do lẽ ấy nên chi phải tu-hành, tu nơi chí-nguyện, phải thọ-trì Tự-Lợi cùng Lợi-Tha Tha-Lợi, con đường tu là một con đường lần bước nơi sanh-diệt gọi là nương theo Vạn-Pháp để tu cho tròn sanh-diệt, diệt-sanh về nơi Bất-Sanh-Diệt. Khi bấy giờ chẳng còn nguyện Tự- Lợi Tha-lợi thân-tâm vẫn thi-hành, Như-Nhiên Tự-Lợi, Hồn-Nhiên tha-lợi với Lợi-Tha gọi là nhiếp-thâu chung khắp. Bậc tu-hành Chí nung thấu-đạt tất cả, về với tất cả thời Môn nào vẫn phải tu. Vì có tu mới có chứng, đến lúc chứng thì lại không chứng vốn không tu.
Tự-Lợi chính nó phát-sanh Dục-Lợi, nó bao-quản sự mê-lầm Cá-Nhân Cá-Tánh Thọ- Ngã cùng Bản-Ngã kiên cố tự-mãn tự-ái, sống theo chỗ sống mộng-tưởng điên-đảo tham-lam ích-kỷ Niết-Bàn thụ-chấp. Tự-Lợi là một then-chốt kiến-dục từ vật-chất đến tinh-thần hoài vọng hơn thực-tế, cầu mong hơn là thực-hiện tỏ-tánh, tự-lợi nó rất tế-nhị cho đến nổi Thân-Tâm mình nó lừa mình mà chưa hay biết. Đức Thế-Tôn Ngài thật tận tường nơi chốn lầm-mê tham-lam kỳ-vọng chúng-sanh Được-Mừng Mất-Buồn Hơn- Thua do Tự-Lợi, Ngài dùng phương-tiện chỉ-giáo : Lìa Ngã cùng Ngã-Sở (Ta và của Ta) hoặc giả không đến mà đến, bằng tự cho mình đến mà không đến, hay Pháp Bố-Thí gồm có : Pháp-Thí, Tài-Thí cùng Vô-Úy-Thí là Tự-Lợi cùng Tha-Lợi song tu làm cho tất cả bậc Tín-Tâm tu theo Tự-Lợi mà sở-đắc Chứng-Tri Tha Lợi cùng Tự-Lợi nhiếp-thu vạn- pháp.
Từ chỗ Tự-Lợi các bậc tín-tâm tha-thiết tu-cầu Tha-Độ, nương nhờ Chư-Phật cứu-giúp chúng-sanh giai-thành Phật-Đạo, nào ngờ tự-lợi cùng với tha-lợi hòa-hợp nhau đương nhiên Tha-Độ cứu-giúp cứu-độ. Bằng tự-lợi tu-cầu Tha-Độ Chư-Phật cứu-độ chăng, vẫn cứu độ nơi thành-tâm đảnh lễ có như thế nên đa-số tu-cầu hữu-lậu, tu cầu phước-báo nơi Tha-Độ của Chư-Phật cứu độ, hiếm bậc có tâm-chí Tha-Lợi giúp người với tinh-thần vô tư, không mảy may cầu lợi, những hàng này chưa phải là Bồ-Tát, nhưng chí- nguyện đã có sẵn trong hàng Bồ-Tát. Đương thời Thái-Tử Tất-Đạt-Đa, lúc chưa tu đã có sẵn Vị-Tha cùng Tha-Lợi nên Ngài tìm phương-thức cứu-độ chúng-sanh thoát khỏi Sanh-Tử Bệnh Lão-Khổ, nhờ tâm chí sẵn có phát- minh mà tu-đạt Chánh-Giác, Ngài thực-hiện đủ Bốn-Hướng từ Tự-Lợi đến Tha-Lợi mà bước vào con đường Tự-Độ cùng Độ-Tha thành Phật.
Đạo-Phật tu có hạng-lượng cùng vô-hạng-lượng đó chính là một điều sát minh rất chân-thật. Vì sao ? -Vì đang lầm-mê, trí-tuệ kém phải thực-hành Tu-Trì, Tu-Tập và Tu-Hành nhiếp-thu cho đầy-đủ Phẩm-Chất Trọng-Lượng có tương-xứng với hàng Bồ-Tát được vào hàng Bồ-Tát trưởng-thành đặng Bồ-Tát. Bằng chưa tương-xứng Siêu-Phiệt Toàn-Chân Toàn-Thiện, bao-quản chung khắp làm sao tu-đạt vào Chánh-Giác? Có bậc đã sẵn có nơi Đạo Tràng nhiều kiếp thành-thục đầy-đủ, đến hiện-kiếp Lai-Sanh liền phát-tâm dũng-mãnh tu-đạt nhanh chóng Chánh-Giác là như thế, gọi là con đường tu-chứng vô- hạng-lượng cùng là có hạng-lượng cũng thế.
Đối với Pháp-Thân-Phật, Sơn-Hà Đại-Địa gọi là Bản-Thể chung khắp, từ Tướng đến Tánh nó thảy đều Thọ-Ngã Giả-Tướng, nên chi từ Sự đến Việc vốn phải từ mỗi một khởi điểm nhỏ, đến lúc hình-thành rộng-rãi bao- la to lớn cho đến vô-biên. Chưa bao giờ sự việc tìm lớn đặng lớn, bỏ nhỏ đặng lớn đâu. Nên Đức Thế-Tôn Ngài thành Phật Ngài nói: Ta thật biết, biết tỉ-mỉ, còn biết hơn thế nữa, Ta không chấp-trước mới hoàn-toàn giải-thoát . Do đó các bậc tu-hành, chỉ nương theo tận-tận thể-tánh di-chuyển Tịch-Diệt khỏi lầm nơi Sanh-Diệt mà hoàn-giác./.
NAM MÔ VÔ-THƯỢNG TÔN-PHẬT
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI TÁM :
CẨM-NANG GIẢI QUYẾT VẠN-PHÁP VỚI CHÚNG SANH
HỠI CÁC CHÂN PHẬT-TỬ !
– Chưa giải-quyết SANH-TỬ, đang còn đi trên con đường Tu-Chứng Chứng-Tu.
– Có GIẢI-QUYẾT Sanh-Tử mới LIỄU-NGỘ BẢN-NĂNG CHÁNH-GIÁC.
– Chưa TỎ-TÁNH đừng hòng MINH-TÂM.
“ CẨM NANG CHỈ ĐẠO CHÂN TÔN”
Con đường Tu-Phật là con đường Duy-Nhất, bậc Tín-Tâm thiết-tha cầu Đạo để giải-quyết sanh-tử . Bằng các bậc tu-hành dù cho thiết-tha thành-thật đến đâu chăng, chưa chủ-yếu giải-quyết, vẫn chưa giải-thoát.
Đường tu các mối tu phải hiểu thấu Thể-Tánh Vạn-Pháp, cốt Tỏ-Pháp mới giải-quyết Tử-Sanh. Nếu tu Thông-Đạt lối tu, thông-đạt vạn-pháp, chưa tận-thấu đường đi lối về, vẫn còn tập-khí Sanh-Tử, chẳng bao giờ Giải-Thoát.
THẾ NÀO THỂ TÁNH VẠN PHÁP?
Vạn-Pháp Thể-Tánh DIỆT rồi mới SANH, hay HOẠI xong mới SANH, nơi Hoại rồi mới Sanh là nơi NHƯ-NHIÊN HIỆN-SANH THƯỜNG-CHÂN BẤT-BIẾN. Chỉ vì Chúng- Sanh lầm-lạc Thường-Sanh Bị-Diệt, mong Diệt bị Sanh, tu sai với thể-tánh, thành thử khó giải-quyết sanh-tử, khó tu-đạt Chánh-Giác, làm thế nào Giác-Ngộ?
Vạn-Pháp với Chúng-Sanh đồng-đẳng không hai, Chúng-Sanh chẳng lầm-mê thảy đều là Phật, vì sự-lý mê-lầm bất tương-đồng, Chúng-Sanh thọ-nghiệp, thọ-chủng, thọ-giới làm Chúng-Sanh-Giới. Khi là Chúng-Sanh-Giới.
– Một là nương theo Pháp-Giới tỏ rõ thâm-nhập Pháp-Giới để Giải-Giới.
– Hai là nương Khởi-Sanh, Khởi-Diệt, cốt THỊ-CHỨNG VÔ-SANH giải-quyết Sanh-Tử.
– Ba là lầm vạn-pháp tu-hành TỎ-PHÁP Đắc-Đạo.
Chư-Phật nhận thấy Chúng-Sanh Thọ-Giới, Thọ Chủng cùng Thọ-Nghiệp say-đắm nơi SẮC-THINH-HƯƠNG-VỊ Theo Ngũ-Dục Thọ-Ái, Kiến-Dục, nên chi Phật mới nói nơi Sanh-Diệt, Diệt-Sanh đều là Pháp Vô-Thường di-chuyển thay đổi không ngừng, cốt cho chúng-sanh chẳng nhiễm-trước, để lìa ái-dục kiến-dục, khỏi mắc miếu nơi Sắc-Thinh- Hương-Vị mà thọ-ngã thọ-nghiệp, Tâm không nhiễm trước mới tương-đồng với Thể- Tánh Vạn-Pháp mà Giác-Ngộ. Còn phần chúng-sanh phải sống trong chập chờn Đói-No, Sướng-Khổ cùng Sống-Chết, mỗi một con-người cho đến hàng triệu con-người chẳng có con người nào có lẽ sống vĩnh-viễn cả, do đó kiếp con người giàu sang danh giả thảy đều cuộc sống tạm bợ, đời sống vô ý nghĩa đối với họ.
Lúc con người phát Tâm tu-hành, tìm lẽ sống bất- diệt, thoát khỏi Vô-Thường về với Thường-Còn Bất-Biến. Những con người nầy rất hiếm, đa phần tu để tu cho ổn-định nó có một lẽ sống nương nơi đường tu hành mà sống an-lành. Khi đã mang lại sự kết quả nơi họ, nhiều ít tùy nơi Thành-Thật và Thiết-Tha mà đáp số kết-quả, đương nhiên những bậc ấy hang-say, nhiễm Đạo, mới nhận cảm Bản-Thân mình quá ư nhiều nghiệp. Nghiệp kéo lôi bê-trễ, Nghiệp ngăn-cản đường tu do Tâm-Thức chấp-nghi, nghi-chấp, Nghiệp nó chướng-đối từng phần, va-chạm từng cơn, từng khúc. Mắt sanh chướng-ngại kẻ bạo-tàn. Tai nghe rủa nguyền, nguyền rủa độc-ác thô-bỉ cho đã cơn tức tối của mọi người phát hiện. Bậc tu-hành lành-lẽ bèn Niệm-Phật để giải-trừ về KHẨU, Niệm-Pháp (xem Kinh Pháp) cốt Tỏ-Tâm cung-kính cúng-dường Chư-Tăng cốt lãnh-hội đường- hướng tu-học.
Từ hàng nghìn xưa cho đến hiện nay, Đạo Phật đã có TÔN-CHỈ cùng MỤC-ĐÍCH nơi Chư-Tăng hướng-dẫn, ĐẠO-LÝ làm con người Xây-Dựng Bản-Thân. GIÁO-LÝ con đường thâm-nhập tỏ rõ lời chỉ-dạy Kinh-Điển. Thực- Hành mới Chứng-Tri Bảo-Pháp, kết-quả công-cuộc tu-hành.
Nhưng lạ thay ! Lý thì nó có Bá-Thiên vạn Lý, nói như thế nào nghe ra cũng phải. Còn Trí lại có trình-độ khác nhau nơi cao chốn thấp. Từ Thánh đến Phàm, từ Tiên-Thần đến bậc Giác-Ngộ thảy đều mỗi bậc nghe rõ mỗi lời, mỗi nơi nghe thông mỗi chỗ, mỗi cấp, mỗi tầm-số thảy đều thực-hiện theo nơi, tầm số mình, nào mấy ai nghe suốt bá-thiên vạn lý-trí đồng nhất đâu mà thực-hành đúng với lời Vàng Kinh-Pháp? Khi bấy giờ Bậc Chánh-Giác bậc đã suốt-thông thấu-đáo lý-trí chung khắp Thế-Gian và Xuất Thế-Gian Tam Thiên Vũ-Trụ, nó có từng GIỚI, từng Phần, từng Giòng, từng Họ, Giới nào giống nào tai nghe quen thuộc, mắt nhìn thường-an, miệng nói thường-lệ, nên chi không còn chướng-ngại khó nghe, khó hiểu, đồng trong một giới thảy đều thông-cảm nhau. Bằng khác Giới, phải THỌ-GIỚI, thâm-nhập giới mà Nghe-Thấy-Biết thật-sự không còn chướng-ngại, nên chi mới nói : Các bậc tu hành phải tu nơi GIỚI-ĐỊNH-TUỆ. Khi VÔ- THƯỢNG-TÔN tỏ rõ ngọn-ngành nên đã nói :
Nếu biết sớm chiều chưa thoải-mái
Hương-nguyền nên giữ tấm tình trong.
Con đường Tu-Phật đã có một Giới nơi Đạo Tràng hãy THỌ-GIỚI ĐẠO-TRÀNG, TRÌ- GIỚI theo TÔN-CHỈ có một tinh-thần quyết-định gọi là ĐỊNH, khi GIỚI đồng với ĐỊNH xong liền Lãnh-Hội bảo-pháp gọi là TUỆ. Lúc đã có sẵn Trí-Tuệ phải thực hiện BA-LA MẬT- ĐA về với CHÂN-TÔN TRỰC-GIÁC.
Cao-quí thay lời vàng chăm-chỉ cứu-chữa các con bệnh mê-lầm thật chu-đáo tỉ-mỉ thay ! Mấy ai đã tỏ rõ thâm-tình của Chí-Tôn Vô-Thượng ? Từ ngôn từ Ấn-Quyết các chư Tăng lãnh-hội tu-hành, ban-bố GIỚI-ĐỊNH-TUỆ cũng-cố nghiêm-túc quá đà, nên chi GIỚI-ĐỊNH-TUỆ kia trở thành vô-ích lầm-mê. Giới gìn-giữ Giới. Định Tọa-Thiền Xuất- Định hay Ổn-Định hoặc Cố-Định, tùy theo chư Tăng chỉ-đạo liền phát-sanh Trí-Tuệ. Làm như thế, giải như thế tất cả thảy đều có mỗi một Định-Hướng Tận-Diệt Nghiệp, tận diệt hiểm-sâu độc ác, xa lìa nghịch-pháp, huân-tập thiện-chân, dùng Tịnh-Diệt tu cầu đại thanh-tịnh sa vào Tiên-Đạo, trái với Thể-Tánh Vạn-Pháp, nên chi khác xa với con đường giải-quyết vạn-pháp với chúng-sanh, bao giờ tu đạt đến Chánh-Giác ?
Các bậc tu-hành, lầm đường lạc lối thành thử tu hàng vạn-triệu kiếp chưa hình-thành, chưa đoạt đến hoàn-lai Chân-Thiện-Mỹ. Vì sao? -Vì tu chỉ biết mình tu nhận lãnh chốn tu-hành củng-cố theo khẳng-định, làm thế nào Trí-Tuệ thoát-sanh truy-tầm duyên-căn tận gốc để mà Tri-Kiến Giải-Thoát Môn ?
Dù cho hàng Xuất-Gia hay Tại-Gia , cũng đều là Giới Xuất-Gia cùng Giới Tại-Gia, mỗi GIỚI đều giữ trọn. Bằng làm Con-Người phải giữ trọn tiếp đãi hoặc đối xử với con người cho trọn. Nếu là con người tự mang lấy Man Tâm Dã-Thú thì thử hỏi có phải con người chăng?
Tinh-thần nơi Đạo-Phật cũng như thế. Khi bậc Xuất-Gia nên chủ-quán Thế-Gian Giả cốt xuất-ly Thế-Gian, lìa hẳn Cấu-Tịnh dị-biệt giữa giới Xuất-Gia cùng Tu Tại-Gia, khỏi bị vướng vào sanh Tâm phân Dị-Biệt. Còn Bậc Tại-Gia phải nâng cao tinh-thần hướng- thượng, nhìn tất cả lý sự khổ đau của quần-chúng, mới sanh tâm Đại-Nguyện lướt qua từng bối-cảnh mà tu-hành. Đây chính là một bước đầu con đường Tri-Kiến. Vì sao? -Vì Xuất-Gia là Pháp-Môn VÔ-VI Xuất-Thế, Công-Đức không màng, Công-phu chẳng bỏ, lợi-ích không cầu, Danh-Nghĩa chẳng Tham, đó mới thật Xuất-Gia Tri-Kiến Giải-Thoát. Còn bậc Tại-Gia, gần Phàm-Phu không làm mất hướng-thượng nơi Thánh-Ý.
Bậc tu-hành rất cần hiểu sâu thâm- nhập, mới rõ thấu Thể-Tánh Vạn-pháp để mà tu. Bậc chưa bao giờ hiểu thấu thể-tánh Vạn-Pháp, cuộc di-chuyển vạn-pháp, linh-động nơi vạn-pháp, thời dù cho tu bá-thiên vạn-kiếp chưa bao giờ giải-quyết đặng Tử-Sanh,vẫn trong vòng Tập-Khí Sanh-Tử mà Sanh-Tử trôi-dạt Luân-Hồi. Đây là một mục đề căn bản, vạch lối để các bậc tu hành tìm chân tu trên con-đường Giải-Thoát. Khó khăn thay! Con đường Tu-Phật, bậc tu-hành dù cho viễn-đạt đến đâu chăng, còn Tập-Khí vẫn còn Sanh-Tử, còn trong vòng Phật-Pháp, Pháp-Phật vẫn còn Tử-Sanh. Dù bậc Đắc-Đạo Tri-Đạo khéo Thuyết-Đạo đều là bậc tỏ rõ đường đi lối về Đạo-Phật, làm sao thoát ly Đạo-Phật mà Giải-Thoát. Dù Phật đã dạy : Đạo-Tràng Cứu-Cánh Giải-Thoát chăng, chưa giải-quyết Sanh-Tử vẫn chưa giải-thoát khỏi Tử-Sanh.
Đương thời Quá-Khứ. Có một Vị Đại-Sư Chỉ-Đạo, một hôm có Vị Trưởng-Giả đến thưa hỏi:
– “Bạch Đại-Sư, Tri-Kiến Giải-Thoát. Còn Sanh-Tử hay chăng?”
Đại-Sư đáp : “Tri-Kiến Giải-Thoát không còn Sanh-Tử.”
Thế mà Đại-Sư vẫn đi trong Sanh-Tử, hiện thân kẻ đưa đò, cốt tìm cho đặng vị Minh-Sư thưa hỏi, mãi đến 18 kiếp mới gặp Minh-Sư. Vị Đại-Sư thưa hỏi như trên, Minh-Sư đáp:
– “Còn Tập-Khí chưa viên-đạt, con đường Sanh-Tử vẫn Tử-Sanh” . Đại-Sư mừng rỡ bái tạ mới nhập Bát-Đại Niết-Bàn. So những điểm trên đủ tỏ rõ, con đường Sanh-Tử là một con đường ấn-quyết sanh-tử, con đường quan-trọng nhất cho bậc tu cầu Chánh- Giác hoàn-toàn Giải-Thoát, không còn tập-khí Sanh-Tử là như thế.
Con đường nầy các bậc, các Chư-Tổ đã từng qua giải-quyết sanh-tử, gọi là MINH-TÂM KIẾN-TÁNH. Bậc tu trước tiên phải Minh-Tâm tận soi Kiến-Tánh. Tánh nó có bốn chỗ DỤNG khác nhau, bốn chỗ dụng nầy phải tận-thấu mới thoát-sanh, thoát-diệt, tường- tận chu-đáo mà giải-thoát.
THẾ NÀO LÀ BỐN CHỖ DỤNG ?
– Một là : THỂ-TÁNH vạn-pháp Diệt xong mới Sanh.
– Hai là : Khi Chúng-Sanh Thọ-Chủng, chúng sanh Thọ-Nghiệp thì Thể-Tánh thuộc về Chúng-Sanh gọi là CHỦNG-TÁNH. Nơi Chủng-Tánh nầy gồm có Chủng-Tánh Bồ-Tát cùng Chủng-Tánh Chúng-Sanh-Tánh.
Chẳng khác nào Vị Trưởng-Giả giàu có Tài-Sản to lớn, vật dụng đầy-đủ không thiếu- sót. Trưởng-Giả mang ra chia cho các con. Mỗi đứa con một món, không còn nguyên vẹn, không còn là Tài-Sản. Thể-Tánh và Chủng-Tánh cũng như thế, do đó nên chi, mỗi mỗi chúng sanh mang lấy mỗi CHỦNG-TÁNH Chúng-Sanh Tánh thành thử TÁNH và TRÍ của mỗi chúng sanh đồng-đẳng, gọi là BÌNH-ĐẲNG TÁNH-TRÍ của mỗi con người chia ra Lý cùng Trí chung gồm bao nhiêu chúng sanh có bao nhiêu Lý-Trí. Lý-Trí nầy thường xẩy ra chuyện đồng và bất-đồng trong hàng Chúng-Sanh-Giới, do đó nên chi có NGHIỆP, nặng nhẹ trở thành Chánh-Báo và Thọ-Báo Sanh-Tử Luân-Hồi.
– Ba là: PHÁP-TÁNH, Pháp-Tánh trực-thuộc về mỗi mỗi Chủng-Tánh ưa chuộng mà đài-thọ Cảnh-Giới, đài-thọ tùy theo Sở-Nguyện cung-cấp như ý-nguyện. Chung gồm tất cả Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới, cho đến Ngạ-Quỷ, Súc-Sanh cùng Địa-Ngục Tứ-Loài thảy đều tùy-thuận biến-hiện, không ngoài cơ-cấu khởi-sanh, bị diệt thảy đều là động-cơ Pháp-Tánh.
– Bốn là: Thể-Tánh Vạn-Pháp bị phân-đối chia-phân do CHỦNG-TÁNH, chủng-tánh củng-cố trưởng-thành Pháp-Tánh, Pháp-Tánh điều-động diễn-biến không ngừng bao che PHẬT-TÁNH, lầm-mê chúng-sanh chưa chu-đáo tận-tường nó là: VÔ-MINH gây nên con đường sanh-tử. Bốn chỗ Dụng diễn-hành mãi cho đến Hàng Bồ-Tát nhiếp-thâu vạn-pháp, nhiếp-thâu Lục-Đạo, tự-tánh tỏ-tánh vẫn chưa đủ chu-đáo phải trải qua hàng Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, những bậc Đại-Bồ-Tát tu Ma-Ha Bát-Nhã, Ba-La Mật-Đa sạch- sẽ, chu-đáo không còn Chỗ Dụng nào, thảy-thảy tận-thấu liền-lạc mới không còn Tập- Khí Sanh-Tử.
TU NHƯ THẾ NÀO SẠCH-SẼ BỐN CHỖ DỤNG ?
– Một là: Nương nơi vạn-pháp Tỏ-Pháp mới sạch-sẽ THỂ-TÁNH. Bằng củng-cố, đứng yên, hư-vọng mong cầu đến vẫn chưa đến, gọi là: Sanh-Diệt, thường sanh hay bị-diệt vẫn chưa sạch-sẽ Thể-Tánh Vạn-Pháp.
– Hai là: CHỦNG-TÁNH , kể từ hàng Chủng-Tánh Chúng-Sanh đến Chủng-Tánh Bồ Tát qua hai tầm-số khác-biệt nhau giữa PHÀM và THÁNH, Con người với bậc Quân-Tử cùng kẻ Tiểu-Nhân.
Chúng-Sanh Chủng-Tánh Bủn-Xẻn, Thù-Hận Ương-Hèn, Ganh-Tị, Vặc-Mắc, Lười- Trễ, Tự-Ái, Tự-Mãn, Tự-Tôn, Tự-Sanh, Tự-Ý, Tự-Lợi, cuộc sống chết không ngoài CÁI ĂN, Cái Mặc.
Những điểm trên khi va chạm nhau. Bủn-xẻn trở thành so tính hơn thua. Được Mừng Mất Phiền gây thành Thù-Hận Oán-Cừu, Ương-Hèn chưa bao giờ vươn mình, khi có kẻ vươn mình sanh ra ganh-tị, tranh-giành, tranh-giành từ lời nói đến sự việc là phát sanh Vặc-Mắc, gặp sự việc va-chạm cá-nhân bộc-lộ Tự-Ái, ưa thích cầu- danh thường Tự-Tôn mình là Đạo-Đức, Tự-Tôn là bậc Quân-Tử, Tự-Sanh ghét kẻ Tiểu Nhân chính mình tự mang nghiệp Tự-Mãn, nơi Tự-Mãn thành thử có riêng tư trở thành nơi Tự-Ý đồng Tự-Lợi.
Bậc tu-hành cần nhất hóa-giải Chủng-Tánh Chúng-Sanh-Tánh, Chủng-Tánh Chúng- Sanh-Tánh là nguồn-gốc lầm-mê, chủng-tánh Chúng-Sanh-Tánh là sợi dây ràng buộc các bậc tu-hành, dù tu cho đến mức nào, nó chưa sạch-sẽ vẫn còn nằm nơi Chúng-Sanh Thành-Phật, Phật với Pháp-Giới chúng-sanh mà thôi. Mỗi một khi Chủng tánh chưa sạch phát sanh ganh-tị, tự-ái tự-mãn cho nó là Nghiệp chẳng phải là Nghiệp, bởi tại chưa sạch-sẽ chúng-sanh trở thành ganh-tị, tự-ái, tự-mãn mà thôi. Lúc sạch-sẽ trơn liền, không bao giờ có những đố-tật như trên đã nói. Phật-Đạo Công-Dụng phương-thức cho chúng-sanh giải-nghiệp gọi là Nghiệp-Chướng, Nghiệp-Thức, Nghiệp-Lậu cùng Kiết-Sử, cho đến Nghiệp-Căn , Nghiệp-Trần cũng không ngoài giải sạch-sẽ Chủng -Tánh Chúng- Sanh-Tánh là một yếu-tố cần nhất vậy.
Đến thời Chúng-Sanh bước qua Chủng-Tánh Bồ-Tát Tánh nó không thể nào căn-cứ được. Vì sao? Vì đương khi Thọ-Nghiệp, chủng-nghiệp chủng-tánh nơi Chúng-Sanh Tánh tiêu giải nhiều ít mà phát nguyện bước qua, thành thử có năng-khiếu Thọ-Lãnh Bảo-Pháp, hiểu biết trọng yếu mà phát-tâm nguyện. Do cớ sự trên nên chi Phật nói: Nơi Mê, chốn Ngộ nó không có Hạng-Lượng, Mê làm Chúng-Sanh , Giác-Ngộ thành Phật. Lý-Sự thành Phật thì rất dễ, mà giải-quyết Sanh-Tử thực-hiện Chánh-Giác khó khăn vô cùng, vì sao? Vì phải Tu mới Chứng, khi Chứng xong gọi là Không Chứng cũng Không Tu.
Hàng Bồ-Tát chẳng còn Tánh Tự-Mãn, Tự-Ái, Tự-Tôn, Tự-Ý, Tự-Lợi cùng Tự-Sanh. Vì sao? -Vì Tự-Mãn , Tự-Ái , Tự-Tôn , Tự-Ý đều là Pháp Hư-Vọng , nó thường sanh hay diệt, thường cấu hay tịnh, chưa hẳn thuộc về Thể-Tánh Chơn-Như của Vạn-Pháp . Lại nữa : Tự-Mãn , Tự-Ái, Tự-Tôn đến Tự-Ý liền Tự-Sanh Tăng-Thượng sai lạc với con đường Giải-Thoát . Bồ-Tát thật tỏ-rõ những Tánh kia còn dung-túng, còn tập-nhiễm, còn cô-đọng gìn-giữ nó, dù cho thuyết-pháp thuyết-minh lời lẽ in tuồng như Phật chăng vẫn là lời Ma-Thuyết.
Hàng Bồ-Tát khai-trừ Chủng -Tánh Bủn-Xẻn Thù-Hận ganh-tị và vặc-mắc, những Tánh nầy không bao giờ trưởng-thành Phật-Đạo. Vì sao? Vì Bủn-Xẻn sanh nở thù-hận, Ương-Hèn là nơi chốn trú-ẩn của chủng-tánh chúng-sanh an-dưỡng nơi Ngạ-Quỷ, Súc- Sanh cùng Địa-Ngục. Lại nữa, Chủng-Tánh Bồ-Tát chủ-yếu nhiếp-thu Pháp-Giới cốt tường-tận. Từ Chủng-Tánh Chúng-Sanh Tánh của mỗi nơi, mỗi chỗ, Thọ-Nghiệp tất cả Vũ-Trụ Tam-Thiên có hằng-hà sa-số khởi-sanh, từ nơi sanh ấy Thọ-Chủng phát-hiện Cảnh-Giới các Cõi, gọi là Thượng-Sanh Hạ-Kiếp không ngừng . Bồ-Tát kiểm-chứng nơi Thâm-Tâm nơi ngưỡng-vọng , Bồ-Tát mới hay kẻ LƯỜI TRỄ là kẻ vặc-mắc đứng thứ nhất, vặc mắc lười-trễ mới phát-sanh nghi-ngờ , nghi-ngờ tự-sanh ra muôn nghìn Pháp- Giới, vô-tận Pháp-Giới là một nơi sanh-diệt không ngừng, do đó nên chi Hàng Bồ-Tát phát-nguyện Tinh-Tấn, phát-nguyện Đại-Nguyện BI-CHÍ-DŨNG lướt qua từng Pháp- Giới hóa-giải nghi-chấp . Bồ-Tát thật tỏ rõ nơi nghi-chấp nầy, chưa hóa-giải Chủng- Tánh Chúng-Sanh còn cặn-bã nào mang lấy nghiệp-quả của chủng-tánh ấy. Cũng như Chén Ngọc-Bích không bao giờ chứa đựng món ăn nhơ-nhớp, hàng Bồ-Tát nhiếp-thu suốt thông vạn nẽo, lại còn phải phẩm-chất hôi-tanh, do cớ-sự trên nên chi Bồ-Tát hóa- giải gạn trừ sạch-sẽ Chủng-Tánh Chúng-Sanh, thật-thụ vào hàng Bất-Thối Bồ-Tát mà Tu-Đạt.
Bồ-Tát nhìn-nhận tại sao các hàng tu chưa đến, chưa có một Lý-Sự chứng-minh, phải đi vòng với Chúng-Sanh-Tánh mà Thọ -Nghiệp ? Do nơi chưa sạch-sẽ, nên Lý-Sự bất tương-song, chỉ tu nơi ngưỡng-vọng mong đến mà chẳng đến. Còn hàng Bồ-Tát không tu-cầu đến mà đến, vì Bồ-Tát, tu sửa tận gốc nên tất cả vạn-pháp hồi-tôn không còn mới sạch-sẽ.
Bồ-Tát biết rõ căn-nguyên của chúng-sanh Chủng-Tánh vướng phải lỗi-lầm mà Thọ- Nghiệp mang pháp giới Thụ-Sanh, còn cuộc sống hằng ngày do DIỄN-CẢNH Bối-Cảnh, Nghịch-Cảnh, mãi lăn-lóc nơi diễn-cảnh bối-cảnh, chưa bao giờ đặng an-nhàn như Bồ- Tát.
Thế Nào Là Pháp-Giới?
Thế Nào Diễn-Cảnh?
Pháp-Giới nó trực-thuộc Cố-Định nền-nếp sống, lẽ sống đang sinh sống của mỗi chúng sanh, không ngoài Thiên-Sống, Nhân-Sống, A-Tu-La Sống, Ngạ-Quỷ, Súc-Sanh cùng Địa-Ngục đang sống hiện-tại Thế-Gian, chia ra rành-mạch củng-cố mà sống gọi HOÀN- CẢNH hay số kiếp con người.
DIỄN-CẢNH , diễn-cảnh do nơi khởi-sanh trong từng thứ lớp trình-độ giai-cấp chúng sanh mà ra, mỗi một chúng-sanh thảy đều Bình-Đẳng Tánh-Trí , mỗi mỗi đều mang lấy Lý-Trí giai-cấp trình-độ mình, cuộc sống nó không ngoài CẢNH SANH-TÌNH, bậc khác hơn lấy TÌNH mà Sanh-Cảnh, chính là bậc Đạo-Đức, được gọi là Quân-Tử.
Từ Nhân-Sinh hay Tứ-Loài trong Vũ-Trụ Tam-Thiên đều hấp-thụ SẮC-PHÁP, nếu chẳng có Sắc-Pháp thời chúng-sanh không phát-sanh Trí-Tuệ hiểu-biết đặng, cuộc diễn tiến đảo-điên, Cảnh sanh Tình kết-nạp, nên chi mới có Kiến-Dục Ái-Dục, được gọi là NGŨ-DỤC Tham-Lam, diễn-cảnh thăng-trầm xuống lên không dứt, nó in tuồng Pháp- Giới, chính nó cũng là Pháp-Giới Khởi-Sanh, Khởi-Diệt, Cấu-Tịnh tạo thành vòng đai Luân-Hồi Sanh-Tử.
Hàng Bồ-Tát thật tỏ rõ. Từ nơi Tánh-Trí suy nghĩ nơi chủng-tánh, do nơi Tư-Tưởng phát-huy Hồi- Tưởng, Tư-Tưởng làm Chủ-Động của Suy-Tưởng (suy nghĩ), trưởng thành Quán-Tưởng đến Định-Tưởng, mới phát-hiện hành-động cho nên mới gọi là : Tư- Tưởng làm Mẹ Đẻ Hành-Động. Hành-Động này nó trực-thuộc trình-độ giai-cấp của mỗi chúng-sanh có mỗi hành-động. Chủ-Đích nơi nó xuất-phát Tánh-Tình cũng là Tánh-Trí Hành-Động, không ngoài đồng-hộp-hóa giữa chúng sanh với nhau, hay Bất-Hợp-Hóa mà có Diễn-Cảnh Thuận-Nghịch là hai con đường chúng-sanh phải chịu lấy.
Bồ-Tát thật rõ, còn rõ hơn thế nữa nên CHỨNG-THỊ Vô-Sanh. Thân-Khẩu-Ý liền-lạc không sai-lệch, nhờ như thế mới có uy-nghi, uy-thế của Bồ-Tát. Bồ-Tát liền Tuyên-Thuyết : NHẤT-NGÔN TRI-KIẾN PHẬT làm cho tất cả nương nơi Bồ-Tát, đó chính là con đường Bồ-Tát độ Chúng-Sanh.
Khi Bồ-Tát viên-dung nương nhờ nơi tu-trì Chủ-Quán, Bồ-Tát thường Quán-Thế, pháp- môn Quán-Thế của Quan-Thế-Âm Như-Lai-Phật là con đường tự-tại của Bồ-Tát, con đường nầy nhiếp-thâu đầy-đủ Tịnh Bất-Tịnh thảy đều Hiện-Thân cứu-độ. Bồ-Tát thường đứng trong Diễn-Cảnh Bối-Cảnh của chúng sanh mà cứu-độ, do đó nên chi Bồ- Tát mới viên-dung Nghe-Thấy-Biết tận-tận, được gọi là : HIỆN-NHẤT-THIẾT SẮC- THÂN TAM-MUỘI.
Hiện-Nhất-Thiết Sắc-Thân Bồ-Tát đã từng lìa Ngã cùng Ngã-Sở không còn Tự-Mãn, Tự- Ý, Tự-Lợi, Bồ-Tát Quân-Minh Tha-Lợi, do đó nên chi tỏ rõ THỰC-TƯỚNG VÔ- TƯỚNG Tam-Muội Pháp-Môn làm Chủ-Trì Thực-Vô, Vô-Thực, Chứng-Tri Bát-Nhã, gọi là Bồ-Tát Ma-Ha-Tát. Bồ-Tát Ma-Ha-Tát không còn tập-khởi, tập-nhiễm trần-lao, vì đã trải qua Chủng-Tánh Chúng-Sanh-Tánh cùng Bồ-Tát-Tánh, Thực-Chứng.
Hàng Ma-Ha-Tát đã thấu-đạt Pháp-Tánh là chỗ Dụng thứ ba, cũng là một yếu-tố đáng kể nhất, trên con đường Vạn-Pháp với Chúng-Sanh, chúng-sanh lầm-lạc sa vào các Cõi cùng các Cảnh-Giới Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới cho đến Tam-Thế-Phật phải Thị- Hiện Cứu-Độ nơi mù-quáng của chúng-sanh. Kim-Cang-Kinh đã nói:
Nhất-Thiết Hữu-Vi Pháp.
Như Mộng Huyển Bào Ảnh.
Như Lộ Diệt Như Điển
Ưng-Tắc Thị Như Quán.
Pháp-Tánh kia nguyên-thể vốn Vạn-Pháp, Như-Nhiên Bất-Biến, do nơi Chúng-Sanh lầm-lạc Thọ-Chủng, trở thành Bị-Biến Diệt-Sanh, thêm vào đó phát-sanh hư-vọng đảo- điên, vạn-pháp kia tùng theo hư-vọng đảo-điên mà ứng-hiện, thành-thử gọi là PHÁP- TÁNH VIÊN-DUNG BÌNH-ĐẲNG , có nghĩa tất cả Chúng-Sanh, nó nghĩ như thế nào thảy đều ra thế ấy, đứng trước khía cạnh bá-thiên Vạn-Lý đến Vạn-TRÍ thảy đều có cái Chân-Lý PHẢI nơi nó, cho đến nổi TÁNH nào, CHẤT nào , PHẨM-LƯỢNG nào, vẫn đều Chánh-Báo Thọ-Báo không sai với nó, tựa như Bóng với Hình, làm cho tất-cả chúng sanh khó thoát khỏi Tử-Sanh cùng Sanh-Tử trong khi đã từng sạch nghiệp, sạch Lý vẫn còn Tử-Sanh Sanh-Tử , dù cho bậc tu-hành không chấp-nhận Pháp-Tánh Vạn-Pháp trao trả hư-không vô-tận, vẫn bị nơi KHÔNG của Pháp-Tánh điều-động thì sao?
Bậc Ma-Ha-Tát nhìn-nhận, trước kia Chúng-Sanh Trí-Tuệ thuộc về Viên-Dung Như-Lai-Trí. Như-Lai thời không thể chỉ, còn viên-dung Như-Lai làm như thế nào để biện- minh. Nhưng Tập : CẨM-NANG nầy cốt lưu cho tất-cả các bậc tu-hành dễ nhận-chân thực-hiện vào con đường giải-quyết Tử-Sanh thành thử phải diễn-giải trên.
Trí-Như Lai Viên-Dung chung khắp. Khi Chúng-Sanh Thọ-Chủng Tánh Chúng-Sanh, thì Trí kia vướng vào TẠNG-THỨC, nhưng tất-cả thuộc về Hạt-Giống Như-Lai nên Trí- Hóa phải tùy thuộc nơi Như-Lai-Tạng. Như-Lai -Tạng trực-thuộc về mỗi Tạng- Thức củng-cố nhận lấy Tạng mình làm bảo-trì Lý-Trí Như-Lai-Tạng với Pháp-Tánh lại đồng-thể như nhau, do đó từ nơi Phải-Trái Tốt-Xấu Hư-Nên tất cả Ngôn-Từ, Ngôn-Thuyết thảy đều chung qui NHƯ-VẬY.
Tạng-Thức mỗi mỗi chúng-sanh đồng NGHE-THẤY-BIẾT, nhưng bất-đồng do nơi Chủng-Tánh khác nhau. Phần Pháp-Tánh do chúng-sanh lầm-lạc Tạng-Thức mộng- tưởng mới hình-thành, do mong muốn mà ứng-hiện, tùy-tùy từng lớp ứng-hiện không thiếu sót, cho đến nổi những bậc giải-Lý tầm-Chơn vẫn là Chân-Lý Pháp-Tánh ứng-hiện, lầm-lẫn thụ-chấp kiến-tạo an-trụ lầm nơi sở-chứng của mình, nào ngờ vấp phải mù quáng, cho nên không thể công-dụng Văn-Tự Minh-Thuyết hoặc Thuyết-Minh để phơi bày cho tường-tận, nơi chốn diễn-biến của Pháp-Tánh . Duy nhất các bậc tu-hành vừa hiểu biết vừa THỰC-HIỆN mới THÂM-NHẬP, mới VIÊN-DUNG nơi TỎ-TÁNH mà thôi.
Khi tỏ rõ tận-thấu Pháp-Tánh mới được gọi là MINH-TÂM, lúc thu-nhiếp Pháp-Giới tường-tận hàng hàng lớp-lớp mỗi mỗi khẽ-động giao-tế, từ tư- tưởng đến hành-động Cớ và Sự, nhiễm như thế nào phát-sanh Lục-Căn, Lục-Trần, Thân cùng Tâm phương-diện nào, gọi là CHỦNG, phương-thức nào cho là Nghiệp. Sự-Lý động-vọng, Bậc nào dùng SỰ làm Phật-Sự, kẻ nào dùng LÝ tu-hành, Tánh cùng Tướng kết-nạp hình-thành như thế nào thảy đều tận tận không hề thiếu sót, đó mới gọi là MINH-TÂM KIẾN-TÁNH, ngoài ra chớ nên dùng Có Sắc-Pháp hay Sắc-Tướng Cầu-Báo. Lại chớ nhận Không, dụng Trí nơi an-trụ xứ, hai điểm này bậc tu chưa Thông-Đạt, Tận-Thành, hãy còn nghi vẫn phải thực-hiện đến lúc giải-quyết đặng Chúng-Sanh cùng Vạn-Pháp, rất tường sai, Ly tận đoạt Chơn. Vì sao? -Vì TẬN-TÁNH tỏ chơn đường đi lối về SANH-TỬ. MINH- TÂM Trực-Ngộ PHÁP-TÁNH diễn-hành, Thọ-Chủng TÂM-THỨC trực- thuộc NHƯ- LAI-TẠNG điều-động.
Bồ-Tát Ma-Ha-Tát. Trước tiên phải là bậc tu đạt Bát-Nhã-Trí, khi Bát-Nhã-Trí viên- thông ra vào Viên-Giác mới Chứng-Tri Ma-Ha-Tát. Bậc tu-cầu phải đi vào con đường Tứ-Nhiếp-Pháp cùng Lục-Ba-La Mật-Đa. Ba-La Mật-Đa thành-tựu Bát-Nhã-Trí, đoạn trên đã nói: Chớ nên dùng KHÔNG lìa Trí mà an-trụ xứ rất tai-hại đường tu, sai với Tinh-Thần Giải-Thoát.
Ma-Ha-Tát đã giải-quyết Ba chỗ DỤNG. Chủng-Tánh Chúng-Sanh-Tánh và Bồ-Tát- Tánh, tu-đạt đến Tận-Tận Vô-Minh, Vô-Minh liền Tận, chưa bao giờ hàng Bồ-Tát Tận- Diệt Vô-Minh, thành thử trơn liền, không còn PHẬT-CHỦNG là Phật-Tánh nữa. Bồ- Tát thành Phật Độ-Sanh, trải qua xây-dựng Quốc-Độ SẮC-TƯỚNG Bất-Biến Thường- An Bất-Diệt vậy.
Hàng Ma-Ha-Tát rất thâm-nhập Lý-Chí của các lời Phật-Ngôn chỉ-giáo hướng-dẫn chúng-sanh trên con đường Giải-Thoát. Chư-Phật dặn dò tất cả các bậc tu-hành chớ nên Chấp-Trụ, lìa hẳn Lý-Sự đảo-điên mộng-tưởng, phải tu-cầu lãnh lấy sự tu-cầu bằng Pháp Vô-Lậu, sẽ kết quả Vô-Biên-Xứ, Vô-Định-Xứ, tỏ Vô-Tận-Xứ rốt-ráo giải-thoát Niết-Bàn hai cánh cửa Niết-Bàn mà Chánh-Giác cho nên Phật nói : KHÔNG ĐẮC mà ĐẮC. KHÔNG CHỨNG mà CHỨNG. KHÔNG ĐẾN mà ĐẾN. KHÔNG Công-Đức mới gọi là CÔNG-ĐỨC . KHÔNG THÂN mới là THÂN.
Những Ấn-Chỉ Phật-Tôn nầy, chỉ có hàng Ma-Ha-Tát, đã từng thấu, vì sao? Vì hiện diện chúng-sanh đang còn Bốn chỗ DỤNG, đang trực-thuộc vạn-pháp tử-sanh chưa giải-quyết sanh-tử, trong lúc đảo-điên hoài-vọng năng-chấp bị trụ lầm lẫn Sở-Đắc Chứng-Tri, thảy đều mơ-màng nơi diễn ảnh, mộng-tưởng Niết-Bàn hai cửa HỮU-VÔ, làm thế nào Chánh-Giác ? Đây là những điều các hàng Ma-Ha-Tát trải qua thâm-nhập, nên chi hàng Đại-Bồ-Tát NGHE THẤY viên-dung, tỏ rõ tận-tận Vô-Biên-Xứ, chưa hề có chỗ nghi nào cả. Có một thời VÔ-THƯỢNG- TÔN Ấn-Chỉ, cốt cho tất cả các hàng Tín-Tâm tu-tập, hãy nương theo đó mà nhận chân Pháp-Tánh, tư-tưởng hình-thành Ngài nói:
THÂN thời đầy-đủ vẹn-toàn.
Phần Tâm-Trí-Óc, của Tiên-Thánh-Thần.
GIÁC-Hoàn chính thật là THÂN.
Tại sao, ngơ-ngẩn phân-vân nỗi gì ?
Tìm đâu, nhìn thẳng bài Thi.
Lời TA đã nói những gì PHẬT-TÔN.
Trải qua hàng bao nhiêu năm, hiếm bậc tu-hành hiểu đặng. Vì sao? Vì lời Ấn-Chỉ vẹn-toàn, tất cả các hàng tu chưa đến nơi Giác-Tướng, đang còn vướng vào BỐN CHỖ-DỤNG quay-quần, từ Chủng-Tánh đến Pháp-Tánh là nơi Tiên-Thánh-Thần sở-chấp an- trụ, bậc tu đa phần chỉ đang tu để tỏ đường tu, thành-thử chẳng nhận chân giá-trị Ấn- Quyết. Khi Chúng-Sanh đang ở nơi chốn thấy, chưa bao giờ thấy đặng. Lúc Chúng Sanh vượt tầm chốn Thấy mới Thấy đặng mà thôi, gọi là : Ở nơi Nghiệp chưa thấy đặng Nghiệp, thoát khỏi Nghiệp mới thấy Nghiệp. Hàng Chủng-Tánh Bồ-Tát đang nhiếp-thâu vạn-pháp, chưa tường tận vạn-pháp, đến khi bước sang Ma-Ha -Tát mới tỏ rõ vạn-pháp là CÁI GÌ ?
PHẦN BA. ẤN CHỈ VỀ SẮC-TƯỚNG
Phần Sắc-Tướng chung gồm Sơn-Hà Đại-Địa Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới, Tam-Thế cùng Tịnh-Độ, Quốc-Độ chư-Phật, cho đến Tứ-Loài, thảy đều Hiện-Tướng từng lớp Chúng-Sanh, từng hàng chư Thiên, chư Tiên, chư Bồ-Tát cùng chư Phật Thị-Hiện, mỗi mỗi lớp lớp đầy đủ trong thế-giới, ngoài các Cảnh-Giới thảy đều thị-hiện như nhau. Chúng-sanh cùng chư Phật, Bồ-Tát với chư Thiên, Ma-Tằng, Quỷ-Quái, Hải-Tặc Sơn- Lâm cho đến bậc Thiện-Căn, Thiện-Chí, Thiện-Cảm, Thiện-Nhân đồng-hiện Thân-Thể Sắc-Tướng, cốt-cách hình- dạng ấy tiêu-biểu thời Quá-Khứ, nên chi hiện-tại HIỆN.
Do đó nên chi Thế-Giới của con người, đứng trong một nước đều nhìn nhận có từng hàng, từng lớp người, từng giai-cấp cử-chỉ hành-động sai khác nhau khó ăn ở đồng-đẳng nhau. Bằng hộp-hóa với nhau gọi là Tri-Kỷ. Diễn-Giải như thế để tiêu-biểu trong một nước chung gồm đầy đủ hạng người quá-khứ đã từng trực-thuộc sinh-sống các Cõi Thượng-Sanh, Hạ-Kiếp nay trở lại Thế-Gian với những điều, một là Bị Sanh từ Cõi-Trời hoặc Cõi-Tiên nơi Thượng-Sanh Bị Hạ-Kiếp. Hai là từ Địa-Ngục Ngạ-Quỷ, Súc- Sanh nay ĐẶNG-Sanh về Nhân-Thế. Ba là LAI Sanh con người sanh lại con-người. Bốn là ĐƯƠNG-Sanh các hàng Bồ-Tát Thị-Hiện Cứu-Độ chúng-sanh. Sự hỗn-hợp nầy không riêng chi ở Thế-Gian các Cõi, các Cảnh-Giới thảy đều hỗn-hộp sanh-sản đầy-đủ từng lớp Hiện-Sanh Hiện-Tướng Bá-Thiên Vạn-Cõi trong Vũ-Trụ về với một Cõi mà Hiện-Thân.
Bậc tu-hành trên con đường giải-quyết Vạn-Pháp với Chúng-Sanh, những vị nầy tu hiện-tại, nhiếp-thu quá-khứ, tận-dụng Sắc-Tướng lìa Sắc-Tướng nhiếp-thu Giác-Tướng thu đạt Như-Tướng Tận-Giác, con đường nầy là một pháp-môn : PHẬT-PHÁP BẤT-LY THẾ-GIAN-GIÁC.
Bậc nầy khi đã từng biết sự hiện-thân sắc-tướng đầy-đủ hạng người không thiếu sót vũ- trụ Tam-Thiên thăng-trầm lăn-lộn không ngoài lầm-mê sanh-tử, tự SANH sợ DIỆT, Tự- MÃN sợ KHINH, Tự-TÔN sợ THỊ, Tự-Ái nên rụt-rè cố-thủ trở thành Bản-Ngã Cá- Nhân, phát-sanh bao nhiêu nghi-ngờ Ganh-Tị, cho nên các Cõi có hình-tướng Sắc- Tướng thảy đều phục-vụ Căn-Bản là TỰ-SANH làm con đường Sướng-Khổ lẽ-sống, sự- sống, cung-cấp sắc-tướng trường-tồn, phụng-sự Sắc-Tướng bất-diệt, phải lầm vào THỌ- NGÃ GIẢ-TƯỚNG, Thọ-Ngã Giả-tướng là nơi hư-vọng nên khởi-sanh liền Diệt, khởi- cấu khởi-tịnh để an-trụ nơi thường-an, bậc tu-hành đang còn Chủng-Tánh, chủng-tánh ấy chưa sạch-sẽ dù cho tưởng bằng Tướng chi không ngoài GIẢ-TƯỚNG, giả-tướng nọ nó không ngoài bốn chỗ DỤNG như trên đã nói.
Bậc tu Tự-Tánh Tỏ-Tánh thường Quán Sắc-Tướng không nhiễm-Trướng gọi là Phật- Pháp Bất-Ly Thế-Gian-Giác. Bậc nầy gần thế -ian Tâm không mắc-miếu, hóa-giải nghi- chấp nên chi nơi cái thấy thường thấy lỗi-lầm nơi thân-tâm mình mà hối-cải.
Lại nữa : Thật tỏ rõ con đường tu-cầu Giải Quyết Tử-Sanh, nhận lấy hiện-tại nhiếp-thu quá-khứ, còn về phần Vị-Lai, kiểm-chứng nơi Công-Đức Công-Năng Bất-Thối, do đó nên chi như-nhiên tỏ rõ thời quá-khứ. Còn hàng Tiên-Thần cùng hàng Nhị-Thừa với Chúng-Sanh-Tánh tu-cầu tỏ rõ Quá-Khứ Vị-Lai hơn hiện-tại tỏ-ngộ bản thân Tâm không nhiễm-trước, của hàng Bồ-Tát, vì sao? Vì hàng Nhị-Thừa Tiên-Thần chỉ lìa trần cấu mà nhiễm Pháp-Tánh, Tận-Diệt Bất-Tịnh lại nhiễm Thanh-Hương, lìa Tối nhiễm Sáng, lìa Thô nhiễm Thanh trở thành không nhiễm, trái lại bị nhiễm-trược.
SẮC-TƯỚNG là một chốn phơi bày Hiện-Tướng thời Quá-Khứ nay đã kết-chung hình- thành nên ứng-hiện đủ màu-sắc, từ Tướng-Hình Cử-Chỉ đến Hành-Động thanh-thô giữa Nhân-Loài, mặt ngoài nhìn thấy nó bất-đồng, nhưng bậc Giác-Tướng thấy nó rất đồng theo Tánh-Trí Bình-Đẳng của nó hiện ứng-thân nơi nó, hoàn-cảnh hiện-hữu của nó, trở thành rất nhiều Thế-Đứng trong xã-hội hiện-đại nầy.
Khi bậc tu-cầu lấy Hiện-Giác, phải hiện từ nơi Thế-Gian đến Xuất Thế-Gian đầy-đủ Vũ-Trụ tỏ rõ Nhân-Loài nó như thế nầy, nó phải hưởng như thế ấy. Nó như thế nọ nó phải chịu như thế kia. Nó như thế khác, nó phải đi theo thế khác mà lãnh lấy trách-nhiệm sướng-khổ, do tại nơi nó mà ra, chớ chẳng ai làm cho nó phải như thế. Thế Đứng nơi Sắc-Tướng phải tận-tận. Thị-Hiện Viên-Dung suốt-suốt đó là Giải-Thoát, chớ không chi Giải-Thoát.
SẮC-TƯỚNG Thân-Hình, không bao giờ thay đổi mà nó vẫn đổi thay, gọi nó không khác mà khác. Hoàn-cảnh khẳng-định không bao giờ thoát nổi. Nhưng nó lại vẫn thoát- sinh đến mức rất an-bài.
Bậc không khác mà khác. Hoàn-cảnh không thoát nổi mà thoát rất an-bài. Những bậc nầy có Căn-Bản tự-lượng lấy mình, tự-chính bản-thân phải bổ-sung những điều thiếu-khuyết, bằng dư-giả phải giảm đi. Tự-trọng mình, tự-tôn không khinh-rẻ kẻ khác, đây là một cơ-bản tiến-thân Sắc-Tướng đáng kể.
Những bậc không khác mà khác. Không thoát mà thoát nó vấp phải BA điều-kiện nầy phải trải qua hàng bao nhiêu Công-Năng Công-Đức mới vượt khỏi, bằng vô-tư không khai-triển khó thành-đạt được mục tiêu trên để đi trên con đường giải-quyết Sanh-Tử.
THẾ NÀO LÀ BA ĐIỀU KIỆN GIẢI-QUYẾT ?
- Điều Kiện thứ nhất: TRÌNH-ĐỘ TRÍ-TUỆ.
- Điều Kiện thứ hai : TƯ-THẾ . GIAI-CẤP.
- Điều Kiện thứ ba : HOÀN-CẢNH THUẬN-LỢI.
Hoàn-Cảnh thuận-lợi rất là hiếm, vì sao?
Vì nơi Diễn-Cảnh hằng ngày, diễn-cảnh nầy do trong hoàn-cảnh phát-hiện, hay do ngoại-cảnh thâm-nhập mà phát- sanh vì Sắc-Tướng va-chạm bất tương-đồng thường xẩy đến. Khi Nhân-Sanh có điều-kiện thứ ba hoàn-cảnh thuận-lợi, lại sanh Trí-Tuệ kém, xác thân lười-trễ, giai-cấp hoài-mong hơn là thực-tế, nên sự Công-Năng yếu khó vượt qua để tỏ rõ sống-chết tử-sanh nguy-hại đến mình làm sao thoát khỏi ? Ba điều-kiện trên nó mãi chênh-lệch kéo dài cho đến bá-thiên vạn-kiếp Tử-Sanh, SanhTử không ngừng, nếu hiện-tại không giải-quyết thời đừng mong đợi Vị-Lai nó an-bài.
Trên Quả Địa-Cầu có gần đến một phần tư Tín-Chúng về Đạo-Phật, có đến bảy mươi phần trăm bậc Tín-Tâm với Phật-Đạo. Nhưng rất hiếm bậc chu-đáo thâm-nhập Tỏ- Tánh như thế nào, chưa tận-thấu Minh-Tâm suốt-suốt ra sao để giải-quyết con đường sanh-tử, Vạn-Pháp với Chúng-Sanh, thì làm sao tiến thân rốt-ráo với Ba ĐIỀU-KIỆN đang vấp phải?
Tập CẨM-NANG Giải- Quyết là Tập đã từng qua diễn-khúc đắng-cay, trải qua hàng bao nhiêu thế kỷ truy-tầm thăng-trầm vô số kể. THỊ-HIỆN, ỨNG-HIỆN chẳng biết bao nhiêu bận. Nay mới mang ra diễn-giải khúc nôi tạo thành CẨM-NANG Cúng-Dường Chư-Phật lưu lại bậc Tín-Tâm, đưa đón Quần-Sinh vào con đường duy-nhất GIẢI- THOÁT-MÔN cứu- thế, Thọ-Ký Nhân- Sinh giai-thành Phật-Đạo.
SẮC-TƯỚNG vốn thể Như-Nhiên Giải-Thoát. Vì sao ? Vì Sắc-Tướng diễn-xuất từ nơi: THÀNH-TRỤ cho đến HOẠI-KHÔNG chớ chưa hề có DIỆT, nó rất phù hợp với con đường tu Giải-Thoát. Vì con đường Giải-Thoát nương nơi Vạn-Pháp Tỏ-Pháp, Pháp- HOẠI hết lầm trở thành TỎ-PHÁP chớ chẳng Diệt-Pháp Ngộ-Pháp bao giờ. Nó lại nương nơi Sanh-Tử, giải-quyết Tử-Sanh, HOẠI, Tử-Sanh trở thành BẤT-DIỆT, không còn chốn Diệt- Sanh liền thành BẤT-BIẾN, BẤT-BIẾN TRONG SẠCH nào có Ba-Điều vấp-phải?
Kỷ-niệm Ngày ĐẠI-LỄ : 30 tháng 9 ẤT-SỬU
VƯƠNG-TÔN Thọ-Ký
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài thứ HAI MƯƠI CHÍN
TƯ-TƯỞNG ĐẠI-DIỆN LINH-HỒN
Do như thế nào Tư-Tưởng đại-diện Linh-Hồn ?
Vì tất cả Nhân-Sinh Tứ-Loài sống không ngoài Tư-Tưởng.
Tư-Tưởng làm Bá-Chủ hoàn- cầu, cho đến Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới chung khắp Vũ-Trụ, nếu không nương theo tư- tưởng thời không thể nào có cái sống, tuy nhiên tư-tưởng nó có sẵn sự-lý vui buồn sướng khổ được mất, nhưng không thể nào mất hẳn tư-tưởng làm nơi sống cho con-người đặng.
Nói đến dòng Tư-Tưởng thường Tư-Tưởng là tư-tưởng, còn Linh-Hồn là linh-hồn, chớ chẳng thể nói tư-tưởng là linh-hồn đặng. Khi dòng tư-tưởng phát-huy có hệ-thống, sáng- suốt gọi nó là trí-tuệ, chậm-chạp đen-tối, lầm-lẫn cho nó là ngu-xuẩn, thành-thử mới có trình-độ, chia ra giai-cấp, cấp nào dùng tư-tưởng theo giai-cấp đó, trình-độ đạo-đức hoặc phi đạo-đức thảy đều sử-dụng, tuân-hành tư-tưởng của mình mà phát-hiện, thật khó mang tư-tưởng của giai-cấp nầy sang trình-độ kia mà sử-dụng, chỉ trừ ra tâm-chí bản-năng của mỗi con người, tự chính mình phải cấu-tạo, huân-tập một thời-gian làm cho tư-tưởng lành mạnh, mới sử-dụng được mà thôi, bằng cố ép giúp-đỡ trong khuôn- khổ nào chăng vẫn đều là kém phần kết-quả như ý đặng, Vì sao ? Vì mỗi một tư-tưởng, nó có một bản-chất độc- lập nơi nó, một khi con người cố-định mấy ai giải-tỏa được nó, duy-chỉ có con người đang mang chỗ cố-định tự giải-tỏa là xong.
Phật-Đạo không công-nhận Linh-Hồn, chỉ chấp-nhận Tư-Tưởng lầm-lạc, vọng-khởi đảo- điên, nếu tư-tưởng trừu-tưởng buông-lung, gọi nó là loạn-tưởng. Từ nơi toàn-diện lầm-lạc đảo-điên, không kiểm-chứng tư-tưởng của bản-thân mình, mãi lao theo loạn- tưởng, phục-vụ vọng-tưởng, mong-cầu loạn-tưởng trở thành nơi chân-thật, chẳng bao giờ đến chân-thật, thành-thử mới có chỗ giả-tạo. Nếu tư-tưởng giả-tạo thì sự việc phải thay đổi, đổi thay theo nhịp-nhàng tư-tưởng khẳng-định, trở thành tạm-bợ nơi mức sống của Tứ-Loài nói chung, nhân-sinh nói riêng từng cảnh-giới đều sanh-tử luân-hồi thay đổi. Do đó nên chi Phật-Đạo nói :
Vạn-Pháp Như Huyển-Hóa. Đời là một giấc mơ, phải tu-cầu giải-thoát nơi mơ-vọng về với Chân-Tôn chứng-trụ.
Còn đứng về phần Nhân-Sinh Tứ-Loài, công-nhận có Linh-Hồn cùng Xác-Thịt. Có Tâm- Linh báo ứng sự linh-cảm, thiêng-liêng, ngoài ra tận dùng Tâm-Thức truy-tầm cùng với Ý-Thức kiểm-nhận chia ra từng văn-kiện. Sự đào-tạo trên nó lại tùy theo năng- khiếu của một người mà kết-quả. Nếu chuyên theo Khoa nào, lúc trưởng-thành thì dòng tư-tưởng khoát- đạt theo khoa ấy, trở nên nhiều khoa như : Y-Khoa, Dược-Khoa, Nha- Khoa, Bác-Học, Nhà ThôngThái-Học, v.v … cũng không ngoài Năng-Khiếu và Tư-Tưởng nơi Thiên-Tài Siêu-Việt là cuối cùng của mức tiến thôi, không thể nào thấu-đáo đặng Linh-Hồn Bất-Diệt đặng. Đạo Phật chẳng công-nhận Tâm-Linh, chỉ thừa-nhận Năng-Khiếu, cho Năng-Khiếu là : Từ nơi Công-Đức Phẩm tạo thành Công-Năng lần tiến, từ bước đầu Ngạ-Quỷ Súc-Sanh lên đến Nhân-Thiên, chư-Thiên, chư Tiên-Thần đến Thánh-Hóa, mỗi mỗi bước tiến thảy đều cơ-cấu chủng-tưởng kết-nạp hình thành Nhân-Tài, Thiên-Tài Siêu-Việt từ nghìn xưa cho đến nay. Do đó Phật-Đạo nói : Các Ông. Chung gồm tất cả Chư Thiên-Tiên, trong Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới, thảy đều Thọ-Ngã Giả-Tưởng hình-thành , không ngoài Sắc-Thinh Hương-Vị Xúc-Pháp sanh- tử. Sự lầm lẫn nầy, nơi Mong-Cầu nầy không ngoài Pháp-Tánh biến-hóa đủ hình thức, các ông ngỡ là Tâm-Linh, chớ chẳng có chi là Tâm-Linh cả. Vì sao ? – Vì các ông Có-Tin mới Có-Linh, bằng các ông chưa tin đâu có Linh ? Nếu các ông có đức-tin mà chẳng soi-sáng đức-tin nơi mình, thời các ông vấp phải loạn-tưởng mê-tín dị-đoan vậy.
Bậc Toàn-Thiện chánh-giác, không công-nhận mức-độ mê-lầm Tâm-Linh của bản- ngã giả-tưởng, sống nơi cuộc sống Quần-Chúng Tam-Thiên đại-thiên thế-giới Rồng-Người, chìm đắm Sắc-Thinh Hương-Vị, cảm-nhận, cấu-nhận Thụ-Nhận cùng chấp-nhận Sắc-Thinh Hương-Vị. Nơi gốc-gác lý-sự chấp-nhập kia do nơi Tư-Tưởng điên-đảo vọng- tưởng liêu-linh hình-thành. Bậc Toàn-Thiện thấu-rõ tỉ-mỉ từng li, từng tí của từng mỗi CHUẨN vi-trần sát-na thay đổi, đổi thay dòng tư-tưởng, nhịp-nhàng diễn-biến làm cho tất cả phải lạc-lầm nơi nó mà tử-sanh. Bậc Chánh-Giác phương-tiện THỪA-NHẬN cho mỗi Chuẩn, mỗi kết Chuẩn, mỗi Hợp thành Chuẫn, đến giai-đoạn trưởng -hành Chuẩn theo nơi Tác-Động mà ra Vạn-Pháp, làm lay-chuyển chúng-sanh, làm cho chúng-sanh phải gây-hấn, sống-chết vui-buồn trở thành Pháp-Giới, trở thành Thọ-Ngã Giả-Tướng, không ngoài Bản-Ngã Giả-Tưởng, Bản-Ngã Giả-Tưởng nầy chính nó là Tư-Tưởng đại-diện cho Linh-Hồn của chúng-sanh Âm-U theo Giả-Tưởng mà phải lìa bỏ Chân-Giác chưa về nơi Bát-Đại. Đại-Bát linh-hồn Bất-Biến thường-còn vậy.
Sự thừa-nhận nầy làm cho chúng-sanh giai-thành Phật-Đạo, nên chi mới khuyến-khích chư-vị Bồ-Tát Hạnh-Nguyện Độ-Sanh, Hành-Nguyện thâm-nhập Pháp-Giới cùng với Tu- Cầu Bát-Nhã, đặng trọn lành thừa-hưởng Bát-Nhã-Trí an-vui Cực-Lạc, khỏi vòng tư-tưởng giả-tưởng làm chủ thân-mạng, làm chủ vạn-pháp, tường-tận Chánh-Giác.
Lý-Sự Hạnh-Nguyện nầy là một rường-cột duy-nhất, vì sao? Vì Chúng-Sanh đa-bệnh Phật phải thi-hành Đa-Hạnh, nên chi Bồ-Tát phải tận-dụng ngôn-ngữ thuyết-giải Cử- Chỉ Đạo-Hạnh theo từng thứ bậc phù-hộp, làm cho tất-cả ưa thích, nương nhờ lý-sự ưa thích ái-kính mà dìu-dắt chúng-sanh. Phần Bồ-Tát vẫn được lợi, nhiếp-thâu tư-tưởng từng lớp lớp mà thấu-đạt Tư-Tưởng Giả-Tướng của chúng-sanh lầm-lạc sanh-tử. Vì như thế nên chi Phật dạy, Bồ-Tát nương nơi Mê mà trọn Giác . Còn Chúng-Sanh truy- tầm vọng-tưởng Bản-Giác trở thành mê.
Khi Bồ-Tát tận-dụng Đạo-Hạnh không, cũng chưa đủ trên con đường tu-cầu giải-thoát vọng mơ, Đạo-Hạnh phải kèm theo Chí-Nguyện , mới gọi là Bồ-Tát trọn-vẹn Hạnh- Nguyện . Bằng Đạo-Hạnh đứng yên, đạo hạnh gìn-giữ củng-cố thời trở thành TƯỢNG- GỖ CHỒI-KHÔ , sống trong tư-tưởng Thọ-Ngã Rỗng-Không khoảng cách.
Bồ-Tát có Chí-Nguyện, chính là Bồ-Tát Hạnh đã từng Hướng-Thượng. Bồ-Tát Hạnh chưa Chí-Nguyện là hạng Bồ-Tát giả-danh củng-cố tư-tưởng, chưa bao giờ khai-thác tư- tưởng nơi mình để sáng-soi chung khắp mà Trực-Ngộ.
Chí-Nguyện Hướng-Thượng là một chí-nguyện cao-cống nhất, chư Phật đã tận dùng trong khi bước sang đạo-hạnh TỪ-BI HỶ-XẢ đạt đến rốt-ráo giải-thoát hoàn-toàn, do đó mà Bồ-Tát tu-trì Hạnh-Nguyện qua từng giai-đoạn, từ nơi Thanh-Tịnh đến nơi Bất-Tịnh, từng lớp lớp chúng-sanh, với chủ-đích phụng-sự cúng-dường Như-Lai Thề-Nguyện-Sự thành-thử không Ô-Nhiễm, không Tập-Nhiễm, chẳng mảy may chướng-ngại sự việc mình đang hành, sự việc mình sắp làm ngày nay phải làm, chốn rỗng-rang của Bồ-Tát, với chí-nguyện Bồ-Tát không có văn-tự hay ngôn-thuyết để tán-thán nổi, duy- nhất bậc tu-chứng Hạnh-Nguyện chung khắp mới tường-tận mà thôi, làm sao Chúng- Sanh Tiên-Thần Thánh hóa hay hàng Nhị-Thừa chứng-tri đặng. Do Hạnh-Nguyện mà Chư Bồ-Tát đặng Hành-Sự, Kiến-Sự Tổng-Trì Đà-La-Ni Tạng vào giòng Như-Lai, nhập nơi Chánh-Định Tam-Muội làm chốn tạm-trú của Bồ-Tát, đặng Chư-Phật thọ-ký thành Phật.
Vòng đai Tư-Tưởng Đại-Diện cho Linh-Hồn Bát-Đại, gọi là Đại-Ngã chung khắp viên- minh thường còn, Tư-Tưởng ứng-trực chủ-đích thuyên-diễn đầy-đủ PHẨM-CHẤT VIÊN-MINH ĐẠI-NGÃ chung khắp. Vì lầm-mê chung khắp Thọ-Ngã nhận lãnh, mỗi một khía cạnh tư-tưởng làm chốn an-trụ trở thành Chúng-Sanh Giới-Hạn. Phần đại- diện phải linh-động dung-thông từ Tịnh đến Bất-Tịnh đâu đâu vốn thuyên-diễn chẳng thiếu sót, cho nên tư-tưởng mới làm chủ-động Tam-Thiên và Tam-Thế Phật.
Nơi Tam-Thế Chư-Phật đồng nương Bổn-Nguyện, tận-độ chúng-sanh rốt-ráo mà Chánh-Giác. Do đó nên chi mới có Chư-Phật Thị-Hiện, chúng-sanh gặp Phật. Nơi Thị-Hiện này là cương- vị Hiện-Thể của Chư-Phật. Còn hàng Bồ -Tát lai-trần nương Thể mà Hiện thời đặc tránh qui-chế Thể-Hiện . Chư-Phật Hiện-Thể có thẩm-quyền độc-lập, chứng-minh Vũ-Trụ . Bồ-Tát Thể-Hiện cứu-khổ độ-sanh chứng-minh chúng-sanh cấp- bậc tu-chứng, vì vậy nên chi Chư-Phật toàn-chân toàn-thiện chánh-giác.
Đức A-Di-Đà Phật, Ngài bậc Vô-Thượng Chánh-Giác chí-tôn, Ngài viên-minh trùm khắp tư-tưởng lầm-lạc của chúng-sanh, mỗi một bản-ngã giả-tưởng thảy đều là Tiểu- Ngã Giả-Tưởng, làm cho chúng-sanh không có nơi thoát-sanh khỏi vòng-đai Tiểu-Ngã, thành thử Chư-Phật đồng nói : Chúng-Sanh lìa Chân-Tâm bất-biến, lầm theo vọng- tưởng làm Tâm sống theo động-vọng. A-Di-Đà Phật ngài bèn ban-hành cứu-độ vãng- sanh, làm cho chúng-sanh kính-ái phụng-hành TỊNH-ĐỘ Vãng-Sanh. Tuyệt-tác thay Vãng-Sanh Tư-Tưởng , từ nơi Động-Vọng tối đen, trở thành Sáng-Tưởng Tịnh-Độ, vì sao? Vì Ngài thật tỏ rõ Viên-Minh vòng-đai sanh-tử nơi Tư-Tưởng. Các bậc tu-hành trên con đường giải-thoát . Tư-Tưởng nó có hàng hàng lớp lớp diễn mãi không ngừng, chung khắp vô-tận vô-biên, nó như bãi cát Sông-Hằng, mỗi hạt cát đều một khởi-điểm, chủng chủng nơi nó khác nhau. Phần chúng sanh Rồng-Người Tam-Thiên Vũ-Trụ, phải tuân-hành chấp-nhận lãnh lấy một hạt cát. Hạt Cát nầy, nếu biết sử-dụng làm cơ-giới tu- hành thời nó biến thành Hạt-Giống Như-Lai, bằng lầm-mê thì nó lại là Bản-Ngã Tiểu-Ngã Giả-Tưởng. Tiểu-Ngã Giả-Tưởng không thấu-đạt bị làm chúng-sanh. Nếu chung gồm bản-ngã giả-tưởng thấu-đạt thì trực-thuộc Đại-Ngã Niết-Bàn, kiến-diện Như- Lai, vỡ tan lầm-lạc, Chánh-Giác.
Bậc Chánh-Giác nhìn-nhận, khi lầm-mê phải nương vào nguồn-máy vạn-pháp tư-tưởng, nên mới có lời thệ-nguyện Vạn-Pháp vô-biên thề-nguyện học. Khi giác-ngộ chánh-giác kiểm-chứng lành-lẽ rành-mạch tất cả tư-tưởng, lý-sự nơi tư-tưởng cử-chỉ hành-động thay đổi, đổi thay có mức-độ, có liên-hệ chủng-nghiệp, chủng-tánh, chủng-tử, của mỗi GIỚI, mỗi hành-vi tế-nhị than- thô, diễn-xuất, rất tường-tận cùng tận-tận nguồn-gốc điều-hành nơi Như-Lai-Tạng ứng-thân-hiện, nên chi Bậc Chánh-Giác không lấy chúng sanh, không công-nhận có chúng-sanh mà chỉ nhìn nhận Ứng-Thân Hành-Dụng của Như-Lai, được gọi nó là TẠNG-THỨC. Tạng-Thức bao-trùm lầm-lạc, sống-chết tử-sanh do Tư-Tưởng vạn-pháp diễn-hành. Tư-Tưởng không lầm, thì Tạng-Thức nào đâu có lạc? Không lầm- lạc thì Viên-Minh Như-Lai kiến-diện, kiến-diện Như-Lai đồng một. Làm như thế, tu như vậy vẫn chưa đủ bổ-sung, Hiện-Thể Tướng Bát-Đại Niết-Bàn. Vì sao? Vì Bát-Đại phải trải qua Đại-Bát, nhiếp-thu Tám-Đại tận-tận rốt-ráo hoàn-toàn Chánh- Giác.
THẾ NÀO LÀ TÁM-ĐẠI ?
– Một là : ĐẠI-ĐỊA (Đất)
– Hai là : THỦY-ĐẠI (Nước)
– Ba là : PHONG-ĐẠI (Gió)
– Bốn là : HỎA-ĐẠI (Lửa)
– Năm là : HƯ-KHÔNG.
– Sáu là : TẠNG THỨC.
Trong Sáu-Đại nầy, Vũ-Trụ chỉ có Tứ-Đại : ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA. Ngoài Đất-Nước- Gió-Lửa ra thì Tứ-Loài có thêm Hai-Đại Hư-Không và Tạng-Thức, thành thử Tứ-Loài Lai-Sanh làm chủ Vũ-Trụ . Sự thừa-hưởng của Tứ-Loài nó không ngoài Chánh-Báo và Thọ-Báo nhịp-nhàng nơi tư-tưởng , vì như thế nên chi từ hàng NHÂN-THIÊN dụng tư- tưởng làm nơi tiến-bộ, cho đến hàng Nhị-Thừa phải tận dùng Định-Tưởng mà sáng-tạo Cõi-Trời hay thành công các cơ-sở chủ-đích. Ngoài ra chỉ có Ba-Cõi như : DỤC-GIỚI. SẮC-GIỚI và VÔ-SẮC-GIỚI cùng các cõi Thiên-Tiên thì ứng-dụng Hư-không Tạng- Thức , được gọi là Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới. Phẩm-Lượng cùng chất-độ nó tùy theo hàng hàng lớp lớp mà huân-tập thành-tựu.
Còn lại Hai-Đại , vượt tầm gọi là Như-Lai-Đại cùng Giác-Tướng-Đại, nên chi lúc không lầm , không lạc kiến-diện Như-Lai hay Như-Lai kiến-diện chớ chưa thành-đạt Như-Lai thì phải thấu-đáo Hư-Không tận-tận thấu Đại-Giác Tướng-Phật.
* THẾ NÀO LÀ HƯ-KHÔNG TẬN-TẬN ?
Hư-Không tận-tận là con đường tu của Bồ-Tát , Bồ-Tát nương nơi Vô-Ngã Giả-Tưởng nương nơi vạn-pháp lìa năng-sở không trụ-chấp làm mức tiến tận-tận hư-không mà trọn-lành Giác-Tướng, cho nên Bồ-Tát mới gọi là KHÔNG-ĐẮC mà ĐẮC, đó là tuần số nơi hư-không không-tận vậy.
Trên con đường tu-cầu Tri-Kiến Giải-Thoát toàn-diện không ngoài hư- không không- tận mà Tri-kiến Phật, Phật-Tri-Kiến. Bước tiến nơi hư-không không-tận rất cao-cống khó lấy văn-tự hay thuyết-ngôn mà giải ra nó đặng, duy-chỉ các bậc tu-hành thực-chứng mới nhìn nhận thọ-lãnh sở-đắc mà thôi . Từ hàng Nhị-Thừa cho đến hàng tu-cầu Phước- Báo Nhân-Thiên thảy đều tận-dụng Tư-Tưởng, huân-tập tư-tưởng cho đến định-tưởng thanh-thoát an-trụ nơi Thần-Thánh-Hóa, nó tùy theo nơi định-hướng của mọi từng lớp mà thành-tựu cảnh-giới, thành-tựu Hữu-Vi Niết-Bàn , hay lầm-lạc hư-không, nhận-lãnh nơi hư-không làm có, thọ-chấp Niết-Bàn không-không tận-cầu nơi chứng-tri mình mà sa vào Vô-Dư Niết-Bàn. Từ chỗ HỮU (CÓ) cho đến nơi VÔ (KHÔNG), nếu chưa tường tận nơi Hư-Không tận-tận Giác-Tướng hiện-tiền , Tri-Kiến hiện-tại. Vì sao ? Vì lìa Giả- Tướng tận Giác-Chân , xa bệnh mê liền tận-giác . Bậc đã giác-ngộ mới tỏ-tường nói lên lời chánh-giác rằng : NÓ CŨNG CÓ . NÓ VẪN KHÔNG. SẴN CHỖ KHÔNG ĐỒNG NƠI CÓ . Kẻ đọc tụng tin-vâng trên văn-tự, đọc thuộc cốt chứng-tri, ngoài ra chưa thấu-đáo, làm sao kết-quả quả-vị chứng-tri nơi mình ? Thật ra Có-Tu mới có chứng, đến hoàn-mỹ không chứng cũng không tu hoàn-toàn chánh-giác.
Từ nơi Tam-Tạng Kinh-Điển , cho đến lời Vàng của CHÍ-TÔN đều lời Khai-Thị làm cho Tứ-Chúng Ngộ-Nhập , Ngài rất tường-tận thấu-đạt nơi chốn lãnh-hội Kinh-Điển lời Vàng nó không ngoài Văn-Tự cùng Ngôn-Thuyết cho các bậc đang thọ-chủng vạn-pháp tư-tưởng thường-tưởng cho đến định-tưởng lãnh-hội hiểu-biết qua từng lớp-lớp nhận lãnh lấy nó. Nó sai-biệt với cơ-sở chánh-giác nơi Chí-Tôn Minh-Thuyết, thành thử Ngài nói:
Ngón tay Ta chỉ Mặt Trăng , chớ chưa hẳn ngón tay Ta là Mặt Trăng , làm cho một số chân phật-tử nương nơi kinh-pháp tu-trì đắc-đạo . Lại có bậc lìa hẳn đường hướng, hủy-diệt thuyết-minh, tư-tưởng trở thành Hiện-Tưởng, nhận lấy Không chi cả mà lầm vào phi-phi-tưởng hủy-diệt.
Lý-Sự lầm-lạc nầy . Chưa phải là Chân-Lý Cao-Siêu Phật-Pháp khó hiểu khó nhận chân ra đặng. Cũng chưa hẳn. Tứ-Chúng vì Chủng-Tánh Chủng-Nghiệp ngăn-cản Vô-Minh che khuất mà sanh-tử.
Do nơi Túc-Mạng thờ-ơ, chưa đầy-đủ Phẩm-Lượng chưa trọn-vẹn Năng-khiếu . Nếu các bậc tu-hành phải nghiêm-túc, lý-trí phẩm-lượng, bước qua từng bước đồng phẩm-chất khoát-đạt thanh-cao ngang hàng Chí-Hướng với Bồ-Tát, liền đồng với Bồ-Tát có chi là Chủng hay Nghiệp? Cấp nào bậc nào, thứ nào, vị nào hộp-hóa trưởng-thành quả vị Tu- Chứng không sai chạy. Nơi chốn Tinh-Tấn nghiêm-túc, tự bản-thân mình phải tự nâng mình cốt-giải quyết Thân-Mạng, giải-quyết Tứ-Đại , giải-quyết Tư-Tưởng , công-dụng Hướng-Thượng, cốt khai-hoang Tạng-Thức về với Chân-Như gọi là Như-Thức, nếu tu như thế, năng-suất như vậy làm gì có nghiệp?
Đại-Sức Quả-Vị như Ông TU-BỒ-ĐỀ, khi đắc-pháp Chân-Không, thâm-nhập tư-tưởng, bản-ngã giả-tưởng, thưa gởi với Chí-Tôn Như-Lai, diễn-đạt nơi Kinh KIM-CANG câu Chính Như-Lai không thuyết-pháp mà con cũng không nghe pháp. Chí -Tôn giải : Phải, chính ông không nghe pháp mà Ta cũng không thuyết-pháp , tuyệt-tác thay ! Bằng Như- Lai thuyết-pháp . Tu-Bồ-Đề nghe Pháp thời các pháp nầy thảy đều là pháp hư-dối, nhận là tư-tưởng giả-tưởng làm thế nào , thọ-trì Giác-Tướng để tận-tận hư-không , qua bên kia không không tận chánh-giác.
Đến thời Lục-Tổ Huệ-Năng Ngài sở-đắc Kim-Cang câu:
Ưng Vô-Sở-Trụ. Sanh như kỳ-Tâm . Tâm không chỗ chỉ, qua tầm-số chỉ sanh kỳ-tâm , do đó Ngài mới thuyết-minh Tự-Tánh Di-Đà , tỏ-tánh chân-nguyên mà hướng-dẫn.
Đương thời Ông Ma-Ha-Ca-Diếp. Đức Thế-Tôn đưa cành hoa , Ngài mỉm cười, trao truyền Tâm-Ấn Giác-Tướng . Ma-Ha – Ca-Diếp chứng-tri : Thật-Tướng , Vô-Tướng Tam-Muội Pháp-Môn , phải trải qua hàng bao TAM-MUỘI vạn-pháp Thần-Thông Tam-Muội, mới chứng-tri lìa Có, lấy Không tận-tận không không đến nơi Phật-Tướng Giác-Tướng thì sao?
Bạch Đức Chí-Tôn Vô-Thượng . Ngài ban-hành lời Bửu-Pháp , tuyệt-tác thay , hiếm bậc thừa-hành suy-tôn lời Hương-Phẩm-Vị. Đệ-tử nguyện suy-tôn trường-tồn minh-thuyết Bát-Đại , minh-thuyết ấn từ qua từng hàng diễn-khúc , làm con thuyền Bát-Nhã thâu-canh, đưa lý-sự lầm-lạc trở về nơi Ấn-Chỉ Nhất-Tôn Phật-Thừa Ấn-Giáo.
NAM-MÔ BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI-PHẬT.
Tuyệt-diệu thay, thậm-thâm vi-diệu thay, an-lành hộp-hóa, an-lành dung-thông, an- lành đồng-đẳng. Mỗi một khi Hư-Không tận-tận chu-đáo an-toàn, giác-hoàn Thân – Phật , liền đồng-đẳng Như-Lai, hiện-nhiên Bát-Đại không còn, không có, Có-Không trọn-vẹn không thừa, Viên-Minh Bát-Đại ./.
NAM MÔ HẠ-LAI VÔ-THƯỢNG-TÔN Kính Bái
Kỷ-Niệm Đản-Sanh 24 tháng 12 ÂM-LỊCH
GIÁO-NGÔN TRỰC-CHỈ
Bài THỨ BA MƯƠI
DO LẦM NÊN HỮU HÓA
Thiền-Sư vừa Tĩnh-Tọa xong, quang-cảnh bên ngoài an-nhiên tịch-tịnh, hư-không vô-tận lặng lờ gió-mây hòa-đồng nơi không-khí, pha lẫn vạn-chất cây lá rừng reo, trở thành mùi hương-vị thuốc trường-sanh.
Thiền-Sư đưa đôi mắt chung đồng, nở nụ cười thoải-mái chào đón vũ-trụ tam-thiên, Ngài gật đầu in-tuồng vừa giải xong cơn đại-định tổng-trì, Thiền-Sư khẽ nói : DO LẦM NÊN HỮU-HÓA . Ta muốn kêu lên lời nhắc-nhở với Cố-Tri . Còn Nghi phải tu cho sạch sẽ chỗ Nghi. Còn Chấp hãy bước lần cho sạch Chấp.
Chớ nên vì Chấp mà đứng yên, chớ vì chỗ Nghi mà an-trụ, cho đó là rỗng-không vô-ích. Đến giai-đoạn tỏ rõ mới nhìn nhận Vạn-Pháp Diễn-Hóa, vốn thể như-nhiên thành thử vạn-pháp không sai hai-tướng, mà Ta cùng Chúng-Sanh đang lầm, bị lạc, gánh chịu hai chữ Tín-Mê đang đi theo Hữu-Hóa ngộ nhận, mới có lý-sự trắc-ẩn dị-phân mãi lầm sanh-tử.
Bậc Đại-Giác Chí-Tôn Ngài đã tận-tường, cái Mê không Gốc mà trái lại CÓ-NGUỒN, vì Chúng-Sanh HỮU-NGÃ mà gây ra, nên Ấn-Chỉ Chúng-Sanh lìa Ngã, nương Vô-Ngã tầm Đại-Chơn, nương theo trăm sông, lần về Biển-Cả. Thiền-Sư, Ngài nói đến đây ra chiều suy-ngẫm liền tự-thán : Khó-khăn thay trên con đường vào Chánh-Giác. Ta đã từng trải qua bao nỗi khúc eo vô cùng vô-tận, nay đạt đến Biển-Cả khó phân như thế nào cho tất cả đang vật vờ nơi cơn-mơ chưa hồi tỉnh. Sức nơi Ta là sức Đại-Dương, còn Công-Năng chúng sanh khác nào bọt trôi theo cơn sóng-gió.
Ngài tự- thán xong Thiền-Sư đưa chánh-niệm giao-cảm Chư-Phật mười-phương rung- chuyển Tam-Thế Chư-Phật đồng thọ-ký lời huyết-tâm Thiền-Sư cảm-ứng. Đâu đó xong xuôi Thiền-Sư giải nói : Nầy các Bậc Cố-Tri Vĩ-Nhân Đại-Chí , tu cầu con đường song tu hiện-giác, những vị nầy, chưa bao giờ được gặp nay gặp với TA, bất cứ một nơi nào đáng kể, miễn nhận chân minh-thuyết thực-hành đó chính là Cố-Tri nay gặp-gỡ. Bằng gặp-gỡ đương thời, sống chung một mái, bê-trễ ương-hèn dù cho đọc-tụng chăng vẫn chưa nhìn đặng ta một ít nào cả. Thật phí thay, thật uổng thay trong một đời chưa gây tạo.
Thiền-Sư tiếp nói : Con đường giải-thoát phải tận-gốc mới thấu nguồn mê, từ Thế-Gian đến Xuất Thế-Gian thảy đều là nguồn giải-thoát, miễn nhận-chân đặng liền lãnh lấy giải-thoát-môn. Bằng vu-vơ chưa nhận khó vào Biển-Cả của Đại-Dương mà giải-thoát.
THẾ NÀO LÀ BIỂN-CẢ ĐẠI-DƯƠNG.
CHÚNG TA PHẢI THÂU-NHẬN LẦM-LẪN ?
Từ một khởi-điểm sơ-khai. Nhiếp-thâu hoàn-tất chẳng thiếu sót mảy may tận-giác. Sự nhiếp-thâu nầy Lìa-Ngã cùng Ngã-Sở , chớ nặng nhẹ Thánh-Phàm chớ vội-vàng chấp nhận.
Kể đến Vũ-Trụ Tam-Thiên thời quá rộng Vô-Biên. Kể từ hàng Tứ-Thánh, mong làm Thánh thật khó đến nơi, kể đến Chư-Phật cầu mong làm Phật. Các bậc tu-hành hãy nương theo vết-chân hướng-thượng, tạm dùng lời bảo-pháp, tận thấu đặng Bảo-Tàng, phụng thờ lời chánh-giác.
Thiền-Sư khởi-niệm xong, Ngài hớp một hơi trà lúc bấy giờ Ngài hướng-dẫn. Nầy các ông, các bậc Cố-Tri nay Ta kể, các vị cùng Ta hãy nhìn nơi, Hư-Không Vô-Tận. Nhìn đến Sơn-Hà Sông-Núi đang chung sống cùng Ta. Bản-thân Ta tìm phương Giác-Ngộ, Tự- Tánh nơi Ta hóa-giải chấp-mê, diệt-trừ bản-ngã trên lý-sự tu-hành. Ta cùng các ông dẫm nát, nó mãi kéo dài, có từng vạn triệu kiếp Người, kiếp Thiên-Tiên hay thọ-sanh vào nơi các loài Cầm-Thú, thăng-trầm làm Quỷ làm Ma không dứt. Do đó nên chi mới có. Phật-Thánh thường-còn. Chúng-Sanh thường-diễn, đến bao giờ chấm dứt giữa Phật với Chúng-Sanh, tìm Ngộ bị Mê ở nơi Mê thấy Ngộ. Lạ thay. Đứng Thánh tự Tăng, ở vào Phàm sa-đọa, khó-khăn thay. Tu-Tịnh vướng Động-Tâm. Sửa sai-lầm, sanh chứng- tật.
Lạ lùng, khó khăn thay, lầm sai nên hữu-hóa. Thâm-Tâm động-vọng lệch Sơn-Hà. Ngày nay Ta đã rõ làm thế nào phân-tánh, vạch hướng cho tất cả bị lầm sai? Thiền-Sư suy- ngẫm đến đây Ngài nói:
Sơn-Hà Đại-Địa Quả-Đất Cỏ-Cây toàn-diện như nhiên diễn-hóa, sự diễn-hóa nầy thuộc về Thể -Tánh nhiên-nhiên tự-hóa, do đó hòa-hộp với tất cả chúng-sanh Tứ-Loài không sai chạy. Nó chẳng khác nào:Con Trăng-Tròn chiếu sáng. Trăm kẻ nghìn người ai cũng công nhận con-trăng gần mình hơn ai cả. Khi vui nhìn cảnh cũng vui, lúc buồn cám-cảnh sụt-sùi tái-tê. Có người Tự hỏi? Do Ta hay do cảnh? Lắm bậc đã từng hiểu do tại nơi ta. Nhưng chính ta chẳng biết làm thế nào cho hơn Cảnh-Tình ấy. Bậc khéo lượng, bậc nầy sẵn có đầy đủ Trí-Thức cùng Kiến-Thức, gọi là Tâm-Đạo biết thương mình và thương mọi người, không lạm-dụng không lừa-dối mọi người hay áp-dụng Tình Sanh-Cảnh, có thể nói đứng vào hàng Quân-Tử.
Thiền-Sư còn nhớ. Có một độ xa-xăm Ngài trực nghĩ, Ta phải thâu-nhận Lầm-Lẫn chính mình mà đào sâu vạn-pháp. Ta phải tận khắp chu-du cốt tận-thấu Duyên Căn lầm- mê cùng giác-ngộ. Khi lầm sanh nơi Vũ-Trụ với con người, tỏ rõ con-người cùng Vũ-Trụ mới là giải-thoát-môn. Bằng tận-thấu Duyên-Căn Đại -Ngộ, nên chi Ngài nói:
Quả- Đất hình thành nó vẫn từ mỗi một điểm nhỏ kết-nạp hóa ra đầy đủ không thiếu sót mới thành hình Quả-Đất. Bậc mê-lầm phải tường-tận duyên-căn chung khắp khi mới sơ-khai, đến giai-đoạn kết-nạp, lúc đã kết-nạp đầy-đủ tiềm-năng, đầy-đủ chất-Phẩm và trọng-lượng, trái-đất kia liền như-nhiên hộp-hóa sanh ra Núi-Sông, Cây-Cảnh. Diện Núi- Sông biện-minh ra địa-giới địa-hạt củng-cố từng nơi, do Tâm-Thức con người nơi thấp chỗ cao, tầm sâu hay nông cạn, từ nhỏ đến lớn, như-nhiên diễn-hóa, có đầy-đủ ý- nhị khó giải hết nơi tập nầy trên văn-tự, trừ ra bậc có đầu óc rộng rãi cân-đối mới tạm hiểu lời Ta nói mà thôi.
Khi bấy giờ . Thời Quá-Khứ không thể nói thời ấy trải hàng bao nhiêu thế-kỷ. Đức A-Đề Phật là Vị Phật đầu tiên ra đời, cùng với quả-đất hình-thành tất cả cây-cỏ núi-sông, tứ-loài sanh-trưởng đầy-đủ không thiếu-sót. Thời bấy giờ, con người chỉ biết thân-mạng mình là giống con-người, ngoài ra chưa hề có kỳ-vọng chi cả. A-Đề-Phật ở tại Khu-Rừng, Ngài kiểm-chứng Cây-Cỏ Núi-Sông Sơn-Hà Đại-Địa mà giác-ngộ.
Ngài nói : Tuyệt-tác thay. Thiên-nhiên sơn- hà cây-cỏ trời mây với Ta là: MỘT, hộ-hóa đồng-thành tương ứng Hiện-Giác.
Thế mà Con-Người ngỡ con người với sơn-hà cây-cỏ núi-sông là Hai, thật sai-lầm vô-hạn.
Đức A-Đề lúc bấy giờ Ngài sẵn có Thể-Tánh Đồng-Đẳng với Sơn-Hà Vũ-Trụ nên chi thường nhập Chánh-Định kiểm-chứng bao-quảng cùng khắp, Ngài nói : Mắt nhìn thấy hư-không, Ta đặt thân mình vào tận hư-không, ta không còn thấy hư-không mà tận thấu hư-không là Giác-Tướng. Ta ra vào vạn-pháp, ta không nhiễm-trước, ta chưa thấy vạn-pháp diễn-hóa ra sao, mà ta nhận-thấu vạn-pháp như-nhiên diễn-hóa, đó là Ta Chứng-Thị như-nhiên thể-tánh vạn-pháp.
Vạn-Pháp nó rất gần ta, mà nó thật rất xa ta có hàng vạn-triệu bá-thiên dặm khi ta chưa nhận chân lấy nó, lúc ta đang còn vướng-vấp đảo-điên do lầm nên hữu-hóa, chỗ hữu-hóa nầy có thể nói là Bị-Hóa che mờ thể-tánh như-nhiên, nên chi trực-giác hơn bị-giác là như thế.
Ngài lấy tài-liệu Minh-Thuyết chủ-đề, ấn-chỉ quyết-ấn bằng thể-cách lấy tất cả các chất cây nơi rừng để hóa-giải với nhân-sinh tứ-loài làm căn-bản trực-giác nên chi Ngài nói : Các ông nên biết, giống cây lớn giòng cây nhỏ cho đến ngọn cỏ toàn cây nơi rừng nầy, thảy đều có tánh-chất hữu-dụng từng cây, mỗi cây, mỗi giống cây đều là linh-dược cứu sống mạng người. Các loài cây ấy, các giống và những giòng cây nó phải chung sống với nhau, dung-dưỡng nhau nhưng không hề mất phẩm-giá nơi nó, vì sao? Vì nó là như- nhiên diễn-hóa. Khi các ông thật biết sử-dụng, thật rõ như-nhiên nơi nó, thời Thân-Tâm nơi các ông rất bình-dị, lý-sự tôi đòi không còn nơi chốn cạnh-tranh soi-bói nhau, sống an-lành nhau, vui đẹp nhau, được gọi là Thanh-Bình hay Tịnh-Độ.
Bằng các ông tỏ rõ ngọn-ngành các ông đang trực-thuộc ý-tứ riêng-tư của các ông, lòng tham-muốn nơi các ông, chỗ tư riêng của các ông. Các ông chẳng lệ-thuộc, nhưng phải lệ-thuộc mong ước, lệ-thuộc vàng bạc, lệ-thuộc cao thấp, cho nơi lệ-thuộc các ông là chân-lý thực-tế cao-cống hơn ai cả, đó là những điều chưa tỏ rõ ngọn-ngành chi cả. Vì sao? Vì nó vẫn cao-cống, nó vốn tỏ rõ ngọn-ngành chân-lý thực-tế nơi nó, lệ-thuộc tất cả từng giai-đoạn, chỗ tư-riêng vẫn nơi nó, lòng tham muốn do nơi nó, riêng tư ý-tứ của nó, cao-thấp, thấp-cao diễn-hóa như-nhiên nơi nó. Ta không nhiễm trước sáng-soi trơn-liền, đó mới thật rõ thấu tận-thấu nó. Ngài vừa diễn-giải xong tất cả thảy đều Thị-Chứng Trực-Ngộ an-bài lành-mạnh đồng đảnh-lễ chiêm-ngưỡng tán-thán. Tuyệt- tác thay, Vạn-Pháp diễn-hóa, nương nơi vạn-pháp tỏ-ngộ như- nhiên, không lầm nơi Hữu-Hóa, đồng-đẳng nhịp-nhàng vũ-trụ tứ-loài chung cùng một Thể-Tánh diễn-hóa, Thời Đức A-Đề Cổ-Phật là một thời Vũ-Trụ với con người rất nhẹ-cảm, chỉ mỗi một khẽ động ấn-chỉ liền trực- ngộ, thành-thử công-dụng ấn-quyết hơn là dùng phương-tiện, trải qua thời Trung-kiếp chẳng biết bao thế-kỷ đã qua. Từ thời Thượng-Kiếp A-Đề-Phật với thời Trung- Kiếp A- Di-Đà một bước dài vô-tận thế-kỷ. Khi Đức A-Di-Đà hiện Thể đầy đủ 32 tướng tốt Quang-Minh vì Kim-Thân Hữu-Tướng Đại-Diện Sơn-Hà tất cả Tứ-Loài Nhân-Sanh cao đẹp. Phật ra đời tùy theo Chúng-Sanh cao-thế hay thấp-thế mà Thị-Hiện. Lại tùy theo trình-độ nghi-chấp mà giải mê, tùy căn-cơ mỗi người mà ấn-chứng.
Đức A-Di-Đà Ngài Minh-Thuyết thực-tiễn cứu-cánh Vãng-Sanh, do đó nên chi Chư- Phật đồng-thanh tán-thán : TỰ-TÁNH DI-ĐÀ. Muôn-Phương Tịnh-Độ. Ngài nói : Các ông nên biết. Tướng-Hảo Quang-Minh thân Kim-Sắc nơi Ta do đâu mà Thị-Hiện ? Do nơi Quang-Minh cao đẹp toàn thân chung khắp. Mắt nơi Ta nhìn đến các ông Bình- Đẳng Quân-Minh không có nơi chốn xấu xa, chưa bao giờ có bợn nhơ nơi đôi mắt, thành thử cao đẹp vô cùng suốt suốt hơn tất cả ngọc bảo-châu. Tự-Tánh nơi Ta Viên- Minh sẵn sáng không pha lẫn, chẳng ô-nhiễm sắc-trần nên viên-minh tận-tận, mà tỏ rõ thể-tánh bổn-lai từng lớp-lớp, những lớp ấy và những thứ ấy thảy đều là Hạnh-Nguyện nơi các ông trở về Chánh-Giác, đồng-đẳng mười phương chẳng có chi xa lạ cả.
Từ thời Trung-Kiếp đến thời Hiền-Kiếp vẫn trải qua có hàng bao nhiêu thế-kỷ. Khi bấy giờ Đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật ra đời Ngài Minh-Thuyết đầy đủ Tam-Tạng Kinh-Điển, nơi Tam-tạng kinh-điển thảy đều Phật-Thừa Tối-Thượng, ấn-quyết lời Kim- Thân mà ra. Tất cả chưa nhận chân đặng thở thành Tam-Thừa Tu-Chứng. Ngài chỉ vì nơi mê- chấp hóa-giải lần-lượt khai-hoang, từ rạch ngòi trăm sông đưa về biển-cả. Từ ở nơi lầm-lạc Thọ-Trì đến nơi Chứng-Tri Phật-Đạo. Từ nơi phân-chia, phân-cách cho đến hợp nhất dung-thông. Từ chỗ Đoạn-Dị sai-lầm Diệt-Sanh Thọ-Ngã. Ngài dụng con đường Bát-Nhã, tỏa khắp muôn phương. Trí-Hóa không lường để soi vạn-pháp.
Tuyệt-tác thay, Đức Vô-Thượng Chí-Tôn, Ngài mở đủ lối, Ngài dọn đủ đường, khai đủ ngõ, không có nơi nào mà Ngài chưa giải. Ngài thực-hiện mười danh-hiệu để xướng-danh chư Phật đả từng thực-hành mười môn-pháp nơi công-đức vô-lượng thành-đạt quả-vị chứng-tri. Bằng thiếu công-xuất, công-năng sa-sút, chưa thu gọn, chưa sung-mãn trong mười danh-hiệu chưa phải là Phật, nơi Diệu-Pháp Liên-Hoa Kinh đã ấn-chỉ.
Đối với Đức Bổn-Sư, Ngài biệt-tài siêu-đẳng chưa có Vị-Phật nào trải khắp chu-du, kinh-điển diễn-đặng như thế. Tất cả những vị nào, từ đời nầy đến đời sau nương theo kinh-pháp ngài đặng giác-ngộ, bằng hình-thức. Không Y-Kinh mà Chẳng Ly-Kinh thảy đều tu-đạt Chứng-Thị.
Thiền-Sư vừa giải đến đây. Ngài đứng lên đi qua, đi lại bảy lần tri-ân Bổn-Sư Chí-Tôn Vô-Thượng, Ngài nói : Giờ đây con mới thấu. KHÔNG SAI. KHÔNG ĐÚNG Đều ĐÚNG MƯỜI PHƯƠNG.
TẬN-TẬN TƯỜNG-TƯỜNG . Chẳng vương, không vấp.
Hay thay, vi-diệu thay. Con đường Bồ-Tát Hạnh-Nguyện, cao quí thay đại-nguyện phát-tâm rộng-rãi cao-đẹp tận-độ chúng-sanh giai-thành Phật-Đạo mà Đức-Chí-Tôn ban-bố chư Bồ-Tát phụng-hành phải trải qua nhiều trở-lực mới tận-thấu Chân-Như. Có, đi vào cơn-mê thực-tiễn mới thâm-nhập cái-mê mà giác-ngộ, có kiểm-chứng thực-hành mới nhận chân được Do lầm nên vương nơi Hữu-Hóa. Bằng dùng Sắc tự quán kiểm- chứng hay Thinh-Hương-Vị Thứ kiểm-chứng thảy đều sai-biệt với Chánh-Giác. Nếu đứng trước khuôn mẫu của mỗi một con người có Tướng Tốt, hoặc giả Tướng-Xấu, chưa hẳn đã tốt hay xấu. Hãy nhìn tinh-hoa vận-chuyển có Thủ hay có Xả. Bằng Thủ nhiều liền Dục-Sắc, dục-Thinh danh-giả, dục-Hương khoe-tài, khoe-đức, dục-Vị ưa củng- cố Vị-Thứ thảy đều là con người giả-danh nơi danh-giả mà Thủ. Bằng Xả nhiều là kẻ trôi sông tiêu-cực mang lấy hư-vô chẳng làm chi hữu-ích, hai hạng con người nầy chưa hề hay biết sử-dụng. Họ thảy đều quan-niệm Thân-Tâm lìa-Ngã cùng Ngã-Sở, mà trái lại Thủ vẫn Ngã, Xả đều là Ngã. Chẳng khác nào CẤU chưa đặng mà Tịnh vẫn không xong.
Thiền-Sư trầm-ngâm in tuồng kiểm-chứng, không khác mấy Vị Đại-Lương-Y, xem xét Mạch-Lạc đặt viên thuốc cứu-chữa bệnh mê-lầm, làm cho con bệnh nhận chân may ra thấu-nhận. Ngài nói: Những Vị Tốt Nhất là bậc. Thủ để kiểm-tra, Xả liền tha-thứ, Thủ đặng sáng soi, Xả đặng trơn liền, nơi tinh hoa vận chuyển của những Vị nầy đã từng thực-hiện, từ Thâm-Tâm cho đến Ngoại-Giới liền-lạc trơn-tru nên chi hay nói: TA THA THỨ, LỖI LẦM CHO TẤT CẢ. TA KHÔNG BAO GIỜ LẦM LỖI. Bằng Ta chưa tha thứ LẦM-LỖI, Ta phải gánh chịu LỖI-LẦM.
Làm như thế, tu như vậy với nhận thấu nơi Chúng-Sanh-Tánh bị lầm nên vạn-pháp Hữu-Hóa. Càng Hữu-Hóa bao nhiêu lại càng sanh-diệt bấy nhiêu. Bậc càng hữu-hóa càng đi nơi sanh-diệt của hữu-hóa mà thân-tâm sáng-soi nhịp-nhàng của hữu-hóa vận-chuyển tỏ-ngộ vận-chuyển lưu-hành nơi thể-tánh nó, những bậc nầy đối với con đường Chánh-Giác rất gần. Vì sao? Vì nương mãi hữu-hóa tận-thấu hữu-hóa liền sở-đắc Niết-Bàn không Hữu chẳng Vô mà Chánh-Giác.
Thiền-Sư Ngài nở một nụ cười. Ngài nhìn mặt đất trơn liền đã từng nuôi- dưỡng trăm nghìn cây lá. Ngài nói : Lời Ta nói không bao giờ họ tin nơi ta Chánh-Giác, Tâm ta trơn liền, ai đã hiểu đặng lòng Ta. Ta thường nói: Ta không bao giờ tiếc Thân-Mạng, thì Tài Sản Vật-Dụng Ta nào có sá chi. Thân-Mạng Ta Tài-Sản vật-dụng Ta bảo-toàn, chính ra Ta bảo-toàn Quả-Vị, không dư-thiếu trơn liền, thì vận-chuyển lưu-hành nào kém khuyết, toàn-diện toàn-chơn viên-dung chung khắp. Đây lời Ta nói tất cả những vị như Ta thảy đều như thế cả.
Ta là một Mẫu Người rất thực-tế toàn-chơn, có thực-tế toàn-chơn như thế mới tận-thấu nơi chốn thực-tế toàn-chơn của tất-cả con người từng lớp-lớp, thảy đều thực-tế trong khi gặp Cảnh sanh Tình, phát-huy lý-trí cùng quan-niệm trong lúc đó. Đứng vào phương- diện con người nó có từng lúc, từng hồi, từng phương-án Cảnh-Ngộ mà nảy-sanh quan niệm. Còn về thời gian thế-kỷ thế-cuộc nó vẫn là quan-niệm tạm gọi là trào-lưu quan- điểm như:
Đương thời, cuối thế-kỷ 19 đầu thế-kỷ thứ 20 thời bấy giờ nó có trào-lưu phong-phú ổn- định, lý-sự diễn-cảnh hiếm-hoi đa số nhà Phú-Hộ ưa chuộng Cầm-Kỳ Thi-Họa, có bậc sùng-ái Đạo-Phật, xa lìa thế-gian có quan-niệm : XẢ-PHÚ CẦU-BẦN. XẢ THÂN CẦU ĐẠO, kể từ thời nầy các bậc tu-hành tự-xướng là BẦN-TĂNG. Nếu có bậc theo quan- điểm mà thực- hành vẫn được toàn dân yểm-trợ tôn-sùng ái-kính Phú-Nhân. Vì sao ? -Vì đương thời đồng quan-điểm tinh-thần đúng với lòng người quan niệm.
Đến thời gần cuối thế-kỷ thứ 20, nó không còn hộp-hóa với quan-điểm trên, do Tình-Cảnh rối-răm, con người phải tự con người tranh-đấu bản-thân sự-nghiệp, thân-tâm đương thời gần cuối, vấp phải lý-trí hữu-hóa lòng người, kỳ-vọng trào-lưu vận-chuyển nơi vận-chuyển nầy là một tiến-bộ loài người, hai là sa-đọa theo kỳ-vọng hữu-hóa gọi nó là hạ-lai mạt-pháp, nó vẫn là công-cuộc trở mình cho Chánh-Pháp đương-lai để mở con người sống cơ-bản phù-hợp với thế-kỷ thứ 21, thế-kỷ 21 là thế-kỷ con người ưa-chuộng thực-tiễn, vì sao ? Vì từ nơi kỳ-vọng ảo-vọng tranh-đấu đến thực-tiễn đó là một lẽ dĩ- nhiên nơi nó sắp-xếp mà trở thành.
Cuối thế-kỷ 20 có thể-chất như thế nào ? Đảm-phá kỳ-vọng lý-trí mang đến con người biện-minh thực-tế. Cũng như : SẴN NƯỚC DÙNG, hãy múc nước mà dùng. Chớ nên đem nước hủy bỏ, mà đào giếng lấy nước mới cho đó là nước dùng. Nơi PHÚ-QUÝ. Có Phú mà đừng nên Quý, dùng giàu chớ ham giàu, đừng hủy giàu sang nghèo, nên nương nơi sẵn có làm con đường kiến-tạo trợ-duyên, trợ-đạo mà tu-hành, thì thân mạng kia nó đã sẵn, được sự trợ-giúp ấm-no, tinh-thần thoải-mái mà giác-ngộ. Cũng như Ta, Thân- Mạng nên bảo-toàn, từng bước một đặng bảo-vệ cho đến thời viên-mãn, mới tường-tận tài-sản là hiện-tướng niết-bàn. Đối với Ta thật tỏ rõ. Lý-Trí và Sự-Việc nó tùy thời mà thay đổi nên mới có chỗ Đúng, chốn-Sai. Còn Chân-Lý Thực-Tiễn bao-quảng chung khắp, từ nhỏ, đến lớn, không sai chạy.
Khi con-người mong đem đến con-người nơi thực-tế thường còn phải làm như thế nào? Dù cho con-người trong thế-kỷ thứ 21 thực-tiễn biết sống đồng biết lẽ sống trong con- người cùng xã-hội vẫn chưa kết-quả đặng. Vì Sao? Vì Chân-Lý của thực-tiễn, phải tận-biết tận-gốc thực-tiễn mới mang lại thường-còn bất-biến thực-tiễn nơi chốn biết sống đồng lẽ sống, bằng chưa biết nó chưa bao giờ thực-hiện đặng nó, lại bị chính nó mang con người chạy mãi vòng quanh theo trái- đất, rốt cuộc không hơn chẳng kém nó, cũng gọi là con đường toán-học vòng-quanh, chẳng hơn không kém vậy.
Thiền-Sư vừa nói đến đây. Ngài có vẻ mặt đăm chiêu, đương chiều suy-nghĩ thầm nói: Nếu Ta nói tất cả con người đang lầm nên bị hữu-hóa. Khi đảm phá hoặc hóa-giải cho con người, thì gốc của con người toàn-diện đang theo hữu-hóa làm như thế nào tận-gốc hữu-hóa, khi bấy giờ mới tận đặng nơi chốn thực-tiễn thường-còn biết-sống và lẽ-sống an-nhiên không còn đúng sai hai chữ chạy vòng thay chu-kỳ trái-đất , chính nó là một con đường thẳng, không nhiễm hữu-hóa, sáng-soi tất cả sự việc lý-trí của hữu-hóa mà đạt-thành căn-bản chân-lý thực-tiễn. Tài-Liệu nầy không ngoài tài-liệu Tam-Tạng Kinh- Điển mà Đức Bổn-Sư đã từng hướng-dẫn, nay được gọi là lời Vàng Bảo-Pháp cho con người và thế-giới đang chiêm-ngưỡng nghiên-cứu chưa tận-thấu tu-đạt. Vạn-Pháp Như-Nhiên. Chúng-Sanh hữu-hóa lầm-lạc. Hai Thái-Cực nầy nó mãi diễn, Chư-Phật cùng Chư Bồ-Tát đã dày công hóa-độ. Khi CHỈ THẲNG Chúng-Sanh-Tánh lãnh-hội vòng quanh, lúc diễn-giải vòng quanh lại có bậc Trực-Ngộ, cho nên lý-sự mê-ngộ nó chẳng có chừng nói nơi văn-tự, chính điểm nơi nó chỉ có Công-Năng đầy-đủ không kém sót là hơn tất cả.
Đức Phật Ngài thật thấu sự lầm nhận với không lầm-nhận chỗ Trắng, chốn Đen vượt tầm không thể nào dùng lời hướng-dẫn mà tận-thấu Mê-ngộ. Từ một biển-cả rộng-rãi với một hạt nước biển bé nhỏ vẫn đầy đủ Phẩm-Chất như nhau nên khó phơi bày ra được. Ngài phải dùng đầy đủ phươn-tiện, nào là Sóng-Biển, Bọt-Biển cùng các vận- chuyển lai-vãng, vãng-lai, gọi nó là Vạn-Pháp Như-Huyển lay-chuyển không ngừng qua từng cơn sóng- gió, cốt biện-minh mãnh-lực nơi cơn-sóng tạo thành tiến vọng dư-âm, có rất đầy-đủ phương-pháp cứu-chữa căn-bệnh lầm-nhận, thế mà căn bệnh nầy ngược lại đi trong hơi thở tiếng nói của Phật mà gỡ khó ra nổi. Các bậc tu hành nếu đặt mình tựa như Biển-Cả, vạn-pháp chuyển lay, từng cơn Sóng- Gió do vận-chuyển nên có bọt sóng là sự dĩ-nhiên. Vì sao ? – Vì Sóng vẫn là Nước đồng Thể nó không Hai. Chúng-Sanh Vạn-Pháp là Một, Do-Lầm nên Hữu-Hóa, Chúng-Sanh Tự-Hóa Bọt và Sóng, nhận lấy Bọt làm Thân-Mạng, nhận lấy Sóng làm Hoàn-Cảnh, nên mới bị Sóng kia đưa đẩy, đẩy đưa, Bọt kia chẵng bao giờ hết bọt. Bậc tu-hành đang ở nơi cơ-sở của bọt nước. Bọt nước lại có bá-thiên vạn-ức triệu bọt. Lầm nhận đứng cương-vị bọt gọi là chứng-tri thảy đều là HUYỂN-HÓA, hợp-tác dung-hòa nhau để tận tỏ-thấu. Bọt Nước đồng-đẳng nhau không hơn kém gọi là Đồng-Hóa, rõ đặng Sóng-Gió như-nhiên, Bọt với Sóng là một, gọi nó là HÓA-ĐỘ, đến giai-đoạn công-nhận thật rõ Sóng với Biển đều như thế là tận-độ chúng- sanh tánh trưởng-thành Phật-Đạo. Hay thay Pháp-Môn Tối-Diệu của Chí-Tôn Vô- Thượng, khéo giải, khéo hóa-độ chúng-sanh trưởng-thành Phật-Đạo.
Thiền-Sư nghĩ về Thiền-Tôn. Ngài nói : Thiền về một MÔN. Chân-Lý Thực-Tiễn, chung gồm Hiển-Giáo và Mật-Môn phát-sanh Trí-Tuệ, trí-tuệ nầy có chỗ học mới biết, hay những điều chưa học như-nhiên năng khiếu đặng biết. Những bậc tu-thiền sai lệch chưa có trí-tuệ, chưa hẳn đã là bậc nhập-lưu tu-thiền. Nói đến chứng-tri mà tu-đạt tận cùng của Thiền-Trí khó giải nơi văn-tự. Vì sao? Vì Môn Thiền là một môn hỗ trợ Công-Năng Đức-Tánh nên chi Tâm-Truyền-Tâm liễu-ngộ Thiền-Sư. Từ nơi nhìn nhận của Hiển- Giáo và Nhà Thiền-Tông không khác mà thật khác thành thử môn Thiền là môn chứng- đạo.
Tu-Thiền có Bốn cấp bậc tu đạt. Từ Sơ-Thiền qua Nhị-Thiền Tam-Thiền đến Tứ-Không- Thiền, bốn cấp nầy Kinh-Pháp Đức Chí-Tôn đã dạy nơi cơ-chỉ Tọa Thiền. Còn về Thiền-Trí vốn có Tứ-Cấp nhận-thức cùng khai-hoang nơi Chân-Lý Thực-Tiễn đến toàn-diện sở-đắc như sau:
SƠ-THIỀN . Những bậc Sơ-Thiền-Cấp nương nơi Công-Năng Đức-Độ hóa-giải hay dùng lý-trí mà nhận-chân nơi : Phật-Pháp Bất-Ly Thế-Gian-Giác, Thấy rõ, Biết rõ, Nghe rõ, những điều mà nhân-sanh chưa nhận-chân đặng Thế-Gian, bậc Sơ-Thiền nhìn nhận chu-đáo hơn. Như : Ta bị Nghiệp kéo lôi biếng trễ. Ta vướng vào hoàn-cảnh trói buộc mong thoát-sanh, Ta mong thoát nó ra nó mãi đeo đuổi. Ta bị Vạn-Pháp Hữu-Hóa trăm phương nghìn cách. Ta phải vươn mình để khỏi bị sanh tu qua các trở- lực Điều- Ngự vạn-pháp mà chứng-tri Phật-Đạo . Ngược lại lúc công-năng đức-độ sơ-thiền tiến hóa hơn liền nhìn nhận chu-đáo hơn như : Chính Thân-Tâm mình Hữu-Hóa Vạn-Pháp, tất cả các nghiệp chính mình tự tạo còn phiền trách ai. Mình trói buộc mình lại kêu nài thoát-sanh . Những bậc biết nhìn nhận như thế mới, tiến qua cấp bậc Nhị-Thiền khỏi sai lạc Thiền-Tông.
NHỊ-THIỀN . Mục Điều-Ngự là một Giới-Thiền quan-trọng, điều-ngự cho Thân-kín-nhiệm, Khẩu-kín-nhiệm cùng Ý-kín-nhiệm. Thân-Khẩu-Ý nầy có kín-nhiệm thời Thiền mới có thể điều-ngự vạn-pháp di-chuyển . Vì sao? Vì Thân đang Tọa-Thiền, di-chuyển biến hóa. khi thân nhỏ, lúc thân to. Mắt nhìn thấy cây-cảnh núi sông, tai nghe tiếng nhạc trời, ý chẳng mừng rỡ, khẩu không nói ra khi mình tọa-thiền diễn-biến mà vướng nơi Năng-Sở-Chấp.
Những bậc Nhị-Thiền đều nhìn nhận : Đa số bị lầm nhau, do nơi Cảnh sanh Tình, bất đồng nên gây ra hoàn-cảnh, mỗi con người bảo-thủ nhận lấy cái-Phải nơi mình mà tự sanh lắm nỗi bất-hòa nhau, dù muốn hay không muốn chăng, nông-nổi bất-hòa luôn luôn xẫy đến, hàng Nhị-Thiền thật tỏ rõ đó chính là tai-nạn HỮU-HÓA mà ra . Nơi Hữu-Hóa nầy tự nơi Tâm-Ý của mỗi người ấy. Hai nữa : Trình-Độ Giai-Cấp Thứ-Vị ấy mà hữu-hóa. Có từng phần ảnh-hưởng nghề-nghiệp từng lớp con người hữu-hóa. Hữu- Hóa nó có hai cơ-sở , một là ThuậnHữu-Hóa mến thương, hai là : Nghịch Hữu-Hóa bất hòa thù-ghét, chỉ vì hữu-hóa từng con người cho đến lớp người mới phát-sanh cạnh tranh hơn thiệt nhau, thành ra mới có:
Đời muôn mặt. Đất trăm phương.
Phật-Vương, Chư Phật một nguồn giác-nguyên.
Diễn-Hành hữu-hóa chân-thường.
Lòng không chìm-đắm, đâu vương mạch sầu?
Bậc Nhị-Thiền tọa đạt Thiền-Tánh, do Tâm-Ý mong cầu mà Thiền-Pháp ứng-hiện, Tâm- ý mong Thần, cầu Thánh, Thiền-Pháp đồng-hiện Thần-Thánh. Có khi không mong cầu vẫn gặp nơi ứng-hiện. Hành-Giả nào hay biết hữu-hóa lầm nhận ngưỡng- vọng. Đối với bậc Nhị-Thiền cho đó là Thiền-Tánh ứng-hiện, không lầm-lạc. Vì sao? Vì Thiền là môn Chân-Lý Thực-Tiễn tu đạt Thiền-Trí, ngoài Thiền-Trí thảy đều Danh-Ngã Giả-Tưởng, do đó không lầm.
Từ hàng nghìn xưa cho đến nay, Đương-Lai nơi thời nầy. Lạc-Pháp chỉ vì : Nó muốn như thế nào nó tu theo nó muốn, không còn cơ-bản ấn-quyết hướng-dẫn, vì sao? Vì theo ấn-quyết bị Giáo-Điều, theo cái muốn lạc hướng thành thử Thiền-Môn, hiếm bậc thực hiện đúng theo Thời Thiền-Tọa để tu đạt đến hàng Tứ-Không-Thiền đặng. Dù có bậc tu đạt đến Tứ-Không -Thiền vẫn trực-thuộc về Tiên-Đạo-Thiền, chớ chưa hoàn-mỹ mức Như-Lai-Thiền đặng.
Hôm nay Ta Minh-Thuyết, con đường trọng-yếu về Thiền-Môn là một Long-Mạch CHÂN-LÝ THỰC-TIỄN THIỀN-TRÍ. Còn phương-diện Thiền-Tọa là kiến-tạo Công- Năng Đức-Độ, bồi-dưỡng Thiền-Trí phá- huy. Không hẳn dùng Sắc-Thiền mà Giác, chẳng phải dụng ÂM-THANH nơi các cõi Trời mà Ngộ, duy-nhất có Thiền-Trí, Giác-trí về Như-Trí nơi Nhất-Thiết-Trí, tỏ rõ từng Chủng-Trí hoàn-chân Chánh-Giác.
Sự việc nơi thời Hạ-Lai đối với Thiền-Tông thảy đều là con số không căn-bản liễu-ngộ, toàn diện hay đa số Hành-Giả tu Thiền thảy đều công-dụng Thiền-Quán Sắc-Thinh ứng hiện cho đó là mục-tiêu chính trở thành sai lệch với Chính-Tông nên chi mới có, phát huy Thiền THẦN-GIAO CÁCH-CẢM. Thiền Xuất-Hồn, Thiền Chữa-Bệnh, Thiền nghiên-cứu tu đạt Thánh-Thần. Những điều nầy đối với Hàng Nhị-Thiền thảy đều tỏ rõ, vì sao? Vì Thiền-Tánh di-chuyển hữu-hóa tùy-thuận theo Vọng-Tâm, Ý- Muốn tu-cầu, rất hiếm bậc chủ-đích về Trí-Tuệ, thâm-nhập trưởng-thành Thiền-Trí.
Bậc Nhị-Thiền nhờ Điều-Ngự Thân-Khẩu-Ý, từ nơi ý-thức kiểm-chứng nhỏ-nhen trở thành chốn Hỷ-Xả Viên-Đạt rộng rãi. Từ nơi Khẩu-Kín-Nhiệm lúc nào cần diễn-đạt mới diễn-đạt, khi nào chưa phải lúc phải hồi-diễn nói liền lặng thinh sáng soi thật tế đúng lúc, đúng hồi mới diễn nói. Thân-Tâm trưởng-thành bình-dị mà tận-thấu tu-đạt Thiền- Tánh, được như thế, đỉnh đạt như vậy mới vẹn tuyền Pháp- Giới mà thâm-nhập từng pháp-giới, được gọi là ĐIỀU-NGỰ TRƯỢNG-PHU, tiến qua bậc cấp TAM-THIỀN khỏi sai lạc.
TAM-THIỀN . Mục-Đề Thiên-Nhân-Sư. Hàng Tam-Thiền không nhiễm trước. Trí-Tuệ đã từng qua giai-đoạn cứu-cánh, nên chi không ngưỡng-vọng, Quá-Khứ không hoài vọng Vị-Lai, duy-nhất hiện-tại làm mức tiến, do như thế nên chi tỏ rõ Thiền-Tánh, thấy rõ tất cả chúng-sanh, sanh-sanh hóa-hóa, từng lúc từng khi, họ chỉ sống đồng sống, từ nội Tâm đến ngoại-cảnh, nhìn nhau nói nhau, thân nhau rồi xa nhau, Thân Hình sắc mặt thay đổi, đổi thay, trong cơn vui buồn sướng khổ, sự thay đổi nầy Do lầm nên Hữu- Hóa.
Bậc Tam-Thiền nói : TÂM-TÁNH NÓ NHƯ THẾ NÀO NÓ HAY HÓA NHƯ THẾ ẤY. Tất cả Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới mỗi nơi, mỗi Cảnh-Giới từng hàng Chư-Thiên đến Rồng-Người, cho đến Ma-Vương, Quái-Tặc loài chim loài chóc, Thượng-Cầm Hạ-Thú, mỗi một cho đến bá-thiên vạn triệu vô-số, vô-biên, không thể nói không thể nào kể hết, thảy đều có Tâm-Tánh duy-nhất nơi nó. Một là nó hành-động đi đứng, nằm ngồi cử- chỉ của mỗi một giống nòi, thảy đều đến cử chỉ giống-nòi nó mà hành-sự nói năng, hay gầm-hét, hoặc giả Ầm-Ừ dùng làm hiểu biết nhau, thân cận nhau cảm mến nhau sống với nhau thỏa thích ưa chuộng, không khác nào Thế-Giới Loài-Người sống chung trong Đô-Thị, vui vẻ nhảy múa ca hát cùng nhau hưởng thụ, cùng nhau xô xát, cùng nhau tranh-cãi, khi hòa cho là phải, lúc bất-hòa cho là quấy. Sự Nghe-Thấy của Từng các Cõi, các Cảnh-Giới đồng với bất-đồng, đối bậc Thiền-Trí thảy đều trái ngược nhau, do nơi hàng Tam-Thiền dùng Giác mà thấy Tướng. Còn tất cả dùng Tướng thấy Tướng nên chi khó nhận đặng Giác-Tướng vậy.
Hàng TAM-THIỀN , thật chứng cùng kiểm-chứng Thân-Mạng nơi cơ-sở bồi-dưỡng Thiền-Trí, trau-giồi sáng-soi Tâm-Tánh lầm-lạc nơi chốn Hữu-Hóa mới nói : Hay thay, Đức Độ lầm mê thật tuyệt tác thay, giờ đây Ta mới thấu, nếu đem thân mạng ta, đứng trước con người, đứng nơi quần chúng, họ thảy đều tán thán Ta gọi Ta là Vị Tu, nhưng nào tận thấu Tâm Tánh ta, đang lúc ấy, đang khi ấy toàn Thân Tâm Ta đang hóa ra hung thần, đang diễn tuồng Quỷ Tặc Ma Vương, hay Càng Cát nào ai đặng thấy, Mấy ai đã hay để mà tường tận?
Bậc Tam Thiền tiếp nói: Ta nói thật hữu hóa đã đã tường tận. Khi Ta làm Phật Hóa Ta không mừng, Giai đoạn làm Quỷ Ma Hóa ta nào có sợ, Ta thường hóa hay hóa Tâm Tánh nơi Ta thuần túy, cho nơi hóa là một món ăn đầy đủ phương thức, thành thử Tâm không Quái Ngại, ý chẳng vương mang, Thức đặng Tự Tại mà tận thấu tất cả, vì chính Ta đã từng hóa tất cả.
Ta chưa bao giờ ưa thích Xuất-Định. Nhưng Ta thường hóa thành thử Xuất-Định. Ta không thừa nhận nơi chốn Nhập-Định, nhưng Ta sáng soi Thường-Tịch-Quang trở thành Nhập-Định. Ta chưa hề cho nơi chốn nào là Chánh hay Tà, vì đã từng ra vào các Cõi. nơi nầy Có thì nơi nọ Không, chốn nầy Đồng thời chốn kia Thiếu, thành ra chỗ nầy một môn, chốn kia mỗi một khóa. Do đó mà tất cả ta chưa hề nghĩ đến Tu-Cầu, Ta chỉ sợ tu vấp chấp. Bậc Tam-Thiền chính bậc đã gần như hoàn-tất Bát-Nhã-Trí qua tầm-số siêu-đẳng Thiền-Trí, nương nhờ cung Kính NHƯ-LAI thề-nguyện sự mà trọn lành như thế, nên được gọi là THIÊN-NHÂN-SƯ.
TỨ-KHÔNG-THIỀN . Thứ Bậc Tứ-Không-Thiền nầy, đương thời Đức Bổn-Sư còn tại thế, tất cả những vị Tu Thiền-Tọa hiếm bậc đã tu-đạt. Chỉ trừ ra Đức Thế-Tôn tu-đạt mà thôi, do đó nên chi có một số tu sai lệch phải qua nơi phi-phi-tưởng, chỉ lầm nơi chốn Không mà tai-hại.
Chốn KHÔNG nầy là chốn Viên-Minh Thường Tịch, sạch-sẽ từ Sơ-Thiền đến Tứ-Không Viên-Minh Chánh-Giác được gọi là TỨ-KHÔNG.
Thiền-Sư vừa nói đến đây, đôi mắt in tuồng thưa gởi, tất cả chào đón Bậc Khai-Môn, Ngài gật đầu đứng lên thở một hơi dài, miệng đọc.
Người CƯ-SĨ, nào cầu Danh-Giả.
Lòng nhủ lòng, đồng-hóa Nhân-Sinh.
Dụng Đời để chỉ Viên-Minh.
Biết chăng, chăng biết. Lộ trình thế thôi.
Người CƯ-Sĩ , khúc nôi tường tận.
Đâu nào đâu vướng bận non sông ?
Chung vui vui với nhịp đồng.
Đạo-Tràng dung khắp, nói không bến bờ ./.
Kỷ-Niệm ngày 14 tháng 02 Âm-Lịch
VÔ-THƯỢNG-TÔN ẤN-CHỨNG
MỤC-LỤC
Bài thứ HAI MƯƠI MỐT : TÂM TÌNH DIỄN TIẾN ĐẠO PHẬT.. 1
Bài thứ HAI MƯƠI HAI: DƯỚI MẮT THIỀN SƯ. VÒNG ĐAI PHÁP GIỚI 11
Bài thứ HAI MƯƠI BA : CHỈ CÓ PHẬT-ĐẠO MỚI TRIỆT THẤU SIÊU ĐĂNG KHOA-HỌC.. 25
Bài thứ HAI MƯƠI BỐN : CON ĐƯỜNG DUY NHẤT XÂY DỰNG BẢN NĂNG.. 44
Bài thứ HAI MƯƠI LĂM : KHAI HOANG TRỰC CHỈ. 52
Bài thứ HAI MƯƠI SÁU : THUYẾT MINH LUẬN ĐƯỜNG TRUNG-ĐẠO-TÔN.. 62
Bài thứ HAI MƯƠI BẢY : MINH THUYẾT TỰ ĐỘ.. 72
Bài thứ HAI MƯƠI TÁM : CẨM-NANG GIẢI QUYẾT VẠN-PHÁP VỚI CHÚNG SANH.. 81
Bài thứ HAI MƯƠI CHÍN : TƯ-TƯỞNG ĐẠI-DIỆN LINH-HỒN.. 103
Bài thứ BA MƯƠI : DƯỚI MẮT THIỀN SƯ DO LẦM NÊN HỮU HÓA 114